Thursday, November 8, 2018

Bàn về THƠ VẦN & THƠ KHÔNG VẦN


Đọc bài báo của ký giả Lâm Văn Sang (LVS) trên tuần báo VTimes số 31, ngày 29 tháng 12-2006, tôi mở đầu bài viết này từ hơn một tháng qua, do bận với công việc tại tòa soạn Nguồn cho tạp chí Nguồn số Xuân ra kịp, nên bài viết này cách bài viết của ông LVS khá xa.

Ký giả Lâm văn Sang với người viết là chỗ quen thân đã trên dưới mười năm. ông là một ký giả được nhiều người tại San Jose biết đến qua mục “Sổ Tay Cộng Đồng” của tuần báo Việt Mercury do ông Trần Đệ làm chủ nhiệm. Việt Mercury đình bản, Ông Trần Đệ ra tờ VTimes đứng tên Chủ nhiệm, ông  Lâm Văn Sang Tổng Thư ký, giữ tiếp mục “Sổ tay cộng đồng” trên tờ báo này.

Do cách viết của một cây bút có khi rất thẳng thắn, có khi bị cho là thiếu trung thực nên trước đây ông LVS từng gặp phản ứng của một số độc giả và một vài nhóm khi họ không vừa lòng với bài báo. Cái chuyện không vừa lòng này xẩy đến với Ông LVS nhiều lần, nhưng cũng là chuyện thường tình đối với một nhà báo trước dư luân của số đông.
Bài viết của Ông LVS mà tôi đề cập ở đây có tựa đề:
“Màu xanh trong thơ siêu thực Hải Phương”.

Tôi lấy làm ngạc nhiên, buộc phải suy nghĩ và nói ra  như một ý kiến thảo luận, khi đọc đoạn văn ông LVS viết: “San Jose từ lâu nay đã trở thành một xí nghiệp thơ, sản xuất ra những vần điệu nghiêm chỉnh đóng thành tập”.
Theo cách viết đó, người ta hiểu rằng chỉ có loại thơ siêu thực, thơ không vần, thơ cách tân mới đáng gọi là thơ. Vì vậy ông LVS đã không tiếc lời, tiếc chữ ca tụng sự tâm đắc của ông với loại thơ siêu thực như sau:
“Không phải mọi thứ được in ra đều là tuyệt phẩm”, ...Từ lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ như CƠTGBBNEC (Cảm ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười) của Hải Phương”.

Hẳn bạn đọc và những người làm thơ, yêu thơ đã từng (hơn một lần) đọc một, hai, ba bài thơ siêu thực, thơ cách tân, thơ dung tục và đã cảm nhận được “cái hay, cái đẹp” của nó như thế nào so với loại thơ vần trong Truyện Kiều, trong Cung oán Ngâm khúc, trong thơ của Vũ Hoàng Chương, của Xuân Diệu... 

Lâu nay người ta đã bàn luận nhiều đến Thơ Vần và thơ không vần, một đề tài đã “xưa như trái đất”, nhưng xem ra vẫn luôn luôn mới, bởi bộ môn Thơ là một phần của đời sống tinh thần trong sinh họat văn học nghệ thuật của nhân loại. Ở Pháp vào thời vua Louis 14 đã có những thi đàn do các nhà quý tộc lập ra để giới trí thức lịch duyệt, được nhà vua nể trọng họp nhau nghe thơ, bàn luận về thơ và để đánh giá mà thừa nhận danh xưng thi sĩ cho những người xứng đáng. Ở Trung Hoa, vào thời thịnh Đường, nhiều nhà thơ không chấp nhận những ràng buộc của Khổng giáo như Đào Tiềm, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên... đã để lại hàng ngàn bài thơ cho gia tài văn học Trung Quốc.

Đó là loại thơ vần mà văn học Việt Nam coi như kế thừa đã mấy nghìn năm. Chúng ta không bao giờ chấp nhận sự “kế thừa” này, vì vậy Thơ Đường đã bị trào lưu thơ Mới đẩy lùi vào bóng mờ của dĩ vãng. Hoài Thanh đã gọi đó là “một cuộc cách mạng thi ca (đã nhóm dậy vào tháng 3 -1932) ”.

Văn học, thi ca cũng như khoa học luôn luôn đòi hỏi con người đi tìm cái mới, cái hay, cái hoàn mỹ, hoàn thiện hơn.  Người ta thấy sự thay thế vị trí của thơ - từ cũ sang mới - sau thời kỳ Tự Lực Văn Đoàn cho đến thời kỳ văn học miền Nam (1954-1975), nhưng dù là cũ hay mới thì thơ vẫn là thơ vần, với đầy đủ tính nghiêm chỉnh của vần điệu, của nhạc tính, của thi tứ và thi ngữ.

Thời kỳ thăng hoa của thơ Việt có lẽ phải kể là vào thời kỳ này với Thi Văn Tao Đàn, với các giải thơ toàn quốc. Ngay cả một số nhà thơ ở miền Bắc sau thời kỳ thơ mới như Hoàng Cầm với Bên Kia sông Đuống, Hữu Loan với Màu Tím Hoa Sim, và các nhà thơ khác trong Nhân Văn, Giai Phẩm đều là những nhà thơ mới, đều có làm những bài thơ phá thể, thơ tự do nhưng nhạc tính và vần điệu vẫn rất hoàn chỉnh, vẫn có thể đọc, có thể ngâm để mà cảm nhận, mà thưởng thức.

Cùng lúc với Thơ Mới chiếm lĩnh vị trí trong thơ Việt, thơ mới “giành được quyền sống”; thơ cũ “mất quyền sống” trong làng thơ, cũng là lúc có những người phỏng theo thơ Pháp làm thơ tự do, thơ phá thể, thơ không vần, nhưng không phổ biến nhiều, không lớn lên được, và không thể tồn tại. Mãi đến sau năm 1954, sau cuộc di cư của gần một triệu người từ Bắc vào Nam, Thanh Tâm Tuyền là người chủ trương khuynh hướng sáng tác thơ tự do, được nhóm Sáng Tạo hưởng ứng và cổ vũ. Từ đó cho tới nay, sau hơn nửa thế kỷ thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền vẫn là... của Thanh Tâm Tuyền, chưa bao giờ nhân rộng ra thành một trường phái có tác phẩm hẳn hòi. Người ta thừa nhận cái công của Thanh Tâm Tuyền hô hào cho khuynh hướng thơ tự do, nhưng không ai thừa nhận cái thành công của khuynh hướng này.

Nhà thơ Hà thượng Nhân, một nhà thơ kỳ cựu trong làng thơ miền Nam, có lần cho chúng tôi biết, trong một lần ông được mời vào Ban giám khảo chấm thi một giải thơ toàn quốc (VNCH), khi biết trong số các tác giả được đề nghị có Thanh Tâm Tuyền, ông đã nói với Vũ Hoàng Chương và Cao Tiêu xin từ chối vào Ban Giám Khảo. Ông Hà vẫn thường nói với chúng tôi: “Ai bảo Thanh Tâm Tuyền là nhà thơ, là thi sĩ, dù ông ta là một người có kiến thức, có tài...”

Trở lại với bài viết của Ông Lâm Văn Sang trên VTimes số 31, quả thật tôi không hiểu được lý do gì đã gây nên cái cảm giác “bất an” cho tác giả bài báo, khi ông viết:
“Những người làm thơ khác ở San Jose (và một phần khác ở hải ngoại, những người có dịp ghé qua thành phố này ra mắt sách của họ), những thi tập khác (cá nhân hay tập thể) vẫn tạo cho tôi cảm giác bất an”.

Chúng ta biết ở hải ngoại và cả trong nước hiện nay thơ đã lạm phát đến mức báo động, nhưng thực ra chẳng hề hấn gì. Ít năm trước thời kỳ thơ mới, tờ “Đông Pháp” ở Hà Nội mở cuộc thi thơ đã có đến 1.500 người dự thi. Hồi đó Hoài Thanh đã tự hỏi: “nước ta có bao nhiêu thi sĩ? 40 ngàn hay 400 ngàn? và ông cho biết 4.000 người có thơ đăng báo, in sách nhưng có chừng 40 người có thơ đưa vào “Thi Nhân Việt Nam”. Số 4.000 hay 40 ngàn hay 400 ngàn người làm thơ thời đó đến nay không ai biết tên tuổi họ (ngoại trừ một số trong “Thi nhân Việt Nam”). Và trong con số 40 người đó cho tới nay cũng chỉ một số ít người đi vào văn học, đếm được đầu ngón tay, được người đời nhắc đến.
Sự sàng lọc, đào thải của thời gian và công luận, của ngườiø đọc là một “cán cân công lý” vô tư nhất.

Tiếp đến, ông LVS viết: “Chúng ta vẫn tự hào một cách chung chung về chuyện đã mang cả sinh hoạt văn hóa (văn học nghệ thuật) của miền Nam ra hải ngoại và từ đó đã tiếp tục phát triển sinh họat này. Tin tưởng như thế và tiếp tục bịt mắt mình, chúng ta đã đi một đoạn đường khá dài, hơn 30 năm”.

Không rõ tác giả bài báo đã có hay sẽ có chương trình, đề án nào cho sinh hoạt và việc nối dài của VHNT miền Nam ở hải ngoại? Và ông LVS cũng dư biết tất cả mọi sinh hoạt chính trị, văn nghệ, văn chương học thuật ở hải ngoại đều là những hoạt động tự phát của từng nhóm, từng hội đoàn, tùy theo khả năng và tấm lòng của họ đối với nghĩa lớn của cộng đồng, của dân tộc, mà phần lớn đều cùng một hoàn cảnh là lực bất tòng tâm. Người đọc bài viết của Ông LVS dù vô tư đến mấy cũng cảm thấy bị xúc phạm, khi mình bị gán ghép cho hành vi “tự bịt mắt” với thái độ “tự hào chung chung”.

Có phải tác giả bài báo cho rằng “Tự bịt mắt mình” nghĩa là mù quáng, là không nhìn về phía trước mà đi tới, dù phía trước đó là cái gì, là nơi chốn nào. Cứ đi tới, đừng nhìn lại quá khứ, vứt bỏ hết quá khứ, dù quá khứ đó như thế nào. Trong khi người sáng tác lại rất cần chất liệu của quá khứ để viết, để suy gẫm và để rút tỉa làm bài học cho chính mình và cho người đi sau. Tôi tin trong chúng ta không ai tán thành việc tiếc nuối quá khứ, khóc than dĩ vãng. Không ai chủ trương hằn học hận thù với quá khứ, nhưng nhất định không ai có thể quên được quá khứ. Quá khứ chính là vốn sống của hiện tại, là bài học lớn và là kinh nghiệm cho hướng đi trong tương lai.
Một đoạn khác trong bài báo:

“Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng một cách oan uổng.”

Thật tình, tôi không hiểu ý của tác giả bài báo muốn nói gì về nhận định này.
“Thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954” mà ông LVS nói đến là thế giới những gì? Theo sự hiểu biết thô thiển của tôi thì “thế giới thơ” từ năm 1954 đến 1975 là một “thế giới” thơ của hai ba thế hệ người làm thơ Bắc (di cư) Trung, Nam, phong phú và đa dạng cả về nội dung tư tưởng đến hình thức. Nói đến “thế giới thơ” miền Nam là nói đến Thi Văn Tao đàn, đến các giải thi thơ toàn quốc, đến các thi văn đoàn và không thể không nói đến những tên tuổi như Quách Tấn, Á Nam Trần Tuấn Khải (thơ Đường), Vũ Hoàng Chương Đinh Hùng, Tạ Ký, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Hà Thượng Nhân, Trần Tuấn Kiệt, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Diên Nghị, Tuệ Nga, Quỳ Hương... Thơ tự do có Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp...

Sau 75 “thế giới thơ” đó đã bị chế độ XHCN với văn hóa Mac-xit xóa trắng một cách không thương tiếc ở trong nước. Vũ Hoàng Chương ra khỏi tù, mấy ngày sau qua đời. Tạ Ký chết bụi chết bờ, Hồ Điệp chết trên đường vượt biên. Tác phẩm của họ bị cho là sản phẩm văn hóa đồi trụy, bị cấm đọc, cấm lưu truyền, cấm lưu trữ... Đó mới chính là sự xóa trắng đáng kinh hoàng, chứ ở hải ngoại người ta vẫn trân trọng, vẫn đọc và vẫn kế tục trong sáng tác, trong lưu hành, và phổ biến.

Có phải cái “xóa trắng” mà tác giả bài báo muốn nói là từ sau 75, ra hải ngoại, và riêng tại San Jose không ai nối nghiệp Thanh Tâm Tuyền, không phát động trào lưu sáng tác thơ văn xuôi, thơ tự do, thơ không vần? Có phải vì suy nghĩ như vậy mà ông LVS giáng bút một cách chủ quan và mỉa mai rằng: “San Jose từ lâu nay đã trở thành một xí nghiệp thơ, sản xuất ra những vần điệu nghiêm chỉnh đóng thành tập”.

Một ý niệm rất đơn giản mà phổ quát đã có từ xa xưa là khi nói đến thơ là nói đến vần điệu. Từ xưa nay, một câu nói, một đoạn viết mà không có vần có điệu thì không ai gọi là thơ.

Tuân Tử trong thiên Nho Hiệu đã phân biệt Thi (là thơ) với Thư (là văn xuôi). Với sự phân định rạch ròi đó, trong văn học cổ Trung Hoa có hai bộ sách - Kinh Thi và Kinh Thư. 

Một số người ngày nay hoặc do không phân biệt được, hoặc do quá dễ dãi, thường nói “viết thơ cho gia đình”, “đi lấy thơ ở bưu điện”, thay vì nói viết thư, đi lấy thư... nhưng một người hiểu biết bình thường không ai lầm lẫn giữa thư và thơ; giữa văn xuôi và văn vần.

Như một nguyên tắc bất di bất dịch, từ lâu đời: Thơ không phải/và không thể là văn xuôi; Thư không phải/và không thể là văn vần. Nay khuynh hướng thơ cách tân, thơ siêu thực, thơ dung tục muốn làm một cuộc “cách mạng” thi ca bằng cách tạo ra một loại thơ tối nghĩa, không vần, không điệu, một mớ chữ nghĩa xà bần, thanh ít tục nhiều, nhằm biểu lộ hoặc để thỏa mãn tính lập dị, khoa trương kiến thức, đem chữ nghĩa ra thách đố người đọc, mà có khi chính người làm ra bài thơ đó cũng không hiểu mình muốn nói gì.

Bạch Cư Dị của Trung Hoa cách đây hơn 1.100 năm lúc làm xong một bài thơ, đọc cho người vú già nghe rồi hỏi: “Có hiểu không?”. Nếu đáp “hiểu” thì ông mới chép lại (bằng không thì vứt bỏ).

Xin quý vị nhà thơ cách tân trước khi đạp đổ cái cũ (thơ vần) hãy từ trong cái cũ bước ra, ít nữa phải là một người đã từng sành sỏi thơ vần và hãy chỉ ra cho mọi người biết và hiểu được cái hay cái dở của cái vần và cái không vần.

Trích dẫn lời nói của nhà văn Ba Lan Witold Gombrowicz “văn chương không phải là một xí nghiệp, cũng không phải là một sản phẩm xí nghiệp”, bài báo viết tiếp “Không phải mọi thứ được in ra đều là tuyệt phẩm”, và trước đó ông viết: “Từ lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ như CƠTGBBNEC (Cảm ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười) của Hải Phương”.

Ý kiến này của tác giả bài báo cho người ta cảm tưởng tập thơ của Hải Phương không là tuyệt phẩm thì cũng là một thi tập vượt lên trên tất cả những tập thơ khác, “từ lâu lắm”.
Tôi hoàn toàn không có ác cảm nào với cá nhân các “nhà thơ cách tân, siêu thực”, cũng mong quý vị thực hiện thành công cuộc “cách mạng thi ca” mà quý vị chủ trương. Riêng loại thơ dung tục thì xung quanh tôi rất nhiều người tỏ ra ngại ngùng khi liếc mắt tới loại thơ trần truồng giả hiệu này. Dư luận chung cho rằng cũng chỉ vì muốn mua chút danh bằng tính lập dị, không giống ai, một số người đã tạo ra một loại “dâm thư” qua thơ, một cách bệnh hoạn. Tôi gọi đó là loại thơ trần truồng giả hiệu, bởi vì tôi tin một cách chắc chắn rằng quý vị “nhà thơ dung tục” ấy chỉ bày biện chữ nghĩa trần truồng lên giấy, nhưng không bao giờ dám bày những thứ đó trước mặt gia đình, con cái, thân nhân, người quen kẻ lạ... Chỉ khi nào quý vị ấy trút bỏ hết y phục, bày mọi thứ... ra trước thiên hạ như quý vị đã viết ra trên giấy thì bấy giờ loại thơ kia mới có “cầu chứng” (với tác giả của nó).

Thử hỏi nếu gia tài thi ca Việt Nam từ Cung Oán Ngâm khúc, rồi Chinh Phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều, sang tới thi ca thế kỷ 19 cho đến tận thời kỳ thơ Mới của Tự Lực Văn đoàn và “thế giới thơ miền Nam” mà tất tất đều là “thơ cách tân”, thơ “tân hình thức”, thơ siêu thực thì văn học Việt Nam ngày nay sẽ ra sao? Và nếu hôm nay thơ siêu thực thay thế toàn bộ thơ “vần điệu nghiêm chỉnh” thì các thế hệ sau này làm thế nào để tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi? Hay đến lúc bấy giờ tất cả mọi người đều đã trở thành những “siêu nhân”, có thể đọc và hiểu được thứ ngôn ngữ thần chú, huyền bí, hiểm hóc ấy! Giả dụ vị khai quốc công thần Lý Thường Kiệt làm bốn câu tứ tuyệt “Nam quốc sơn hà Nam đế cư...” bằng loại thơ cách tân siêu thực thì đã có được tác dụng gì với lòng dân, với triều đình nhà Hán, và còn tồn tại đến ngày nay không?  

Có thể là quá đáng, trong khi tác giả bài báo hết lời tán tụng tập thơ “siêu thực” có tên “cám ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười” của Hải Phương thì ông lại nặng lời với những người làm thơ khác ở San José một cách đáng tội: “Nhiều người khác ở đây (San Jose) cũng móc gan ruột ra tuyên bố tương tự như một nhãn hiệu cầu chứng cho những gì phát xuất từ 1954 cho đến 1975 mới là chính hiệu”.

Tôi cư ngụ tại San Jose đã gần mười lăm năm nay, từng theo dõi mọi sinh hoạt thơ văn trong vùng nhưng chưa bao giờ nghe ai “móc gan ruột ra” tuyên bố như vậy “để làm cầu chứng” như bài báo gán ghép.

Một đoạn văn khác xin trích dẫn:
“Kế thừa là chuyện dễ nói hơn dễ làm trong văn chương nhắm mắt và bịt mắt. Thế giới thơ ở San Jose đã không tiếp nối trào lưu sáng tác thơ đa dạng ở miền Nam trước 1975. Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng một cách oan uổng”.
Thật tình tôi không hiểu thế nào là “văn chương nhắm mắt và bịt mắt”.

Phải chăng văn chương mở mắt là loại văn chương siêu thực, cách tân, dung tục mà tác giả bài báo dẫn dụ người đọc với “Màu xanh trong thơ siêu thực Hải Phương”, khi ông đưa ra kết luận: “Hải Phương đang làm sống lại ngôn ngữ thơ Việt Nam qua CƠTGBBNEC”.
Một nhà thơ nữ nói với người viết: “đọc thơ HP, đọc câu này của LVS ngẩn ngơ hết biết”.

Không ai có quyền bắt buộc một người khác thích cái này hay không thích cái kia. Một bức tranh đối người này cho là đẹp, người kia phê bình là xấu. Một bài thơ người này khen hay, người khác chê dở; một thiếu nữ đi ngang qua, người này khen là đẹp, duyên dáng, người kia cho là “thường”.

Cũng vậy, môt người có thể cảm khoái với loại tranh lập thể, trừu tượng, nhưng xin đừng quay sang chỉ trích trường phái “cổ điển” mà cho rằng (ví dụ): “San Jose lâu nay đã trở thành một xí nghiệp tranh vẽ, được lắp ráp cảnh trí với chân dung nghiêm chỉnh, dùng sơn màu và cọ đưa lên khung vải...”.  Như thế có ổn không?

Theo tôi, ranh giới giữa các trường phái nghệ thuật cũng như giữa thơ siêu thực và thơ vần có hai dạng thái rõ rệt

San Jose 2-2007


Một Ý Kiến Về


Giới Thiệu Tác Phẩm & Phê Bình Văn Học 


Như có lần tôi đã trình bày trong một trang viết đăng trên tạp chí Nguồn số 54 về sự tương quan như thế nào giữa việc giới thiệu một tác phẩm và bộ môn Phê Bình Văn Học.

Xin thưa, viết tựa cho một quyển sách hay giới thiệu một tác phẩm là một việc làm mang tính ước lệ. Người viết thường trích dẫn từ trong sách những đoạn văn, những câu thơ ưng ý để minh họa cho nhận định mà mình đồng cảm, tâm đắc với tác giả. Người giới thiệu tác phẩm thường có vai trò khác với độc giả của tác phẩm đó – nghĩa là không làm công việc bình phẩm khen chê.

Về bộ môn thơ, có một nhận định chung là tất cả các tập thơ - của bất kỳ tác giả nào, không phải toàn bộ thi phẩm đều là những bài thơ có cùng phẩm chất. Và rằng một người làm hàng trăm bài thơ, có được năm, ba bài; hoặc năm, bảy câu thơ được người đời nhắc nhở, truyền tụng thì đó là một tác giả thành công và là một nhà thơ thành danh.
Người thưởng ngoạn thơ, khi đọc một bài thơ, một tập thơ, cảm xúc của người đọc sẽ hòa lẫn vào cảm xúc của người viết. Tác giả truyền dẫn tâm sự của mình vào tâm hồn người đọc nếu bài thơ được viết ra từ rung cảm, từ sự trăn trở, từ nỗi niềm tận đáy lòng mình. Ngược lại là những bài thơ khó làm rung động lòng người, dù bài thơ vẫn nghiêm chỉnh ngữ nghĩa, vần điệu, niêm luật.

Người đọc tác phẩm và giới thiệu đến độc giả tác phẩm đó rất khác với công việc phê bình tác phẩm. Người giới thiệu tác phẩm cũng có vai trò như một độc giả, đọc và thưởng thức nội dung tác phẩm rồi lượm lặt ra những bài thơ, đoạn thơ, câu thơ tâm đắc, ưng ý mà viết ra, nói ra chia sẻ với người khác.

Người giới thiệu tác phẩm không làm công việc của nhà phê bình: tìm tòi, phân tích những cái hay, cái dở trong từng câu từng đoạn - văn cũng như thơ. Và sau cùng có thể định hình một cách khách quan giá trị nội dung của tác phẩm. Nhờ đĩ tác giả có thể nhìn nhận (hoặc phủ nhận) ý kiến của nhà phê bình, một cách không chủ quan, để hoàn chỉnh lại tác phẩm của mình. Và độc giả cũng nhờ đó mà tìm được những tác phẩm ưng ý.

Bộ môn phê bình văn học đã bị bỏ trống từ nhiều thập niên ở trong nước và hoàn toàn thiếu vắng ở hải ngoại.

Từ thời Đệ nhất Cộng Hòa, sau Bản tuyên bố trong cuộc hội thảo về “Vấn đề phê bình văn nghệ” tổ chức ngày 15 tháng 1 - 1967 tại Chợ Lớn, với trên 250 nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, ký giả, sinh viên tham dự... cho đến nay chưa có một cuộc tập họp nào thảo luận về đề tài này. Sở dĩ người ta “tránh né” vì Phê bình văn học “chính là một nguồn dư luận, với một chủ đích nhất định, nhưng lại khó chấp nhận ở loại công chúng chủ động...” (*). Bất cứ một tác phẩm nào muốn gây được sự chú ý của dư luận và muốn được dư luận chú ý thì phải chấp nhận “bị ném đá” như câu ngạn ngữ khá phổ biến trong giới văn nghệ: “Chỉ những cây có quả mới bị ném đá”.          

Trong “Nói Chuyện Với Thơ”, Chương I – “Vai Trò Và Sứ Mệnh Của Thi Sĩ” là phần nhận định của tôi về thơ của các tác giả: Tuệ Nga, Vi Khuê, Cao Mỵ Nhân, Phan Thị Ngôn Ngữ, Cao Nguyên, Cung Diễm, Duy Năng, Hương Giang, Hàn Thiên Lương, Hà Trung Yên, Luân Hoán, Song Thi, Sương Mai, Thường Quân, Võ Ý, Vương Nhân cũng cùng “thể loại” với các tác giả viết về thơ Song Nhị.
Nói chung trong cả hai chương I và II đều có một cách viết giống nhau, đúng như tựa đề quyển sách “Nói Chuyện Với Thơ”.

Cũng vậy ở Chương II - Thơ Song Nhị - Giòng Sử Thi Buồn Của Đất Nước (*) là phần giới thiệu thơ Song Nhị của những cây bút quen thuộc như: Trần Tuấn Kiệt, Trần Kiêm Đoàn, Nguyễn Thùy, Diên Nghị, Hồng Vũ Đông Sơn, Phan Bá Kỳ, Diệu Tần, Hà thượng Nhân… mà không phải là Phê Bình Văn học. Các tác giả chỉ lượm lặt ra những câu thơ, ý thơ hay, cốt lõi để giới thiệu…

Tuy nhiên, là những người cầm bút (tự trọng), chúng tôi chịu trách nhiệm về những bài viết của mình trước dư luận. Trong phần viết về thơ Phan Thị Ngôn Ngữ, tôi có lời bộc bạch như sau:
“Tôi không có ý cường điệu khi đưa ra nhận định này. Tôi không viết cho tôi và cũng không phải viết cho tác giả. Sự khen chê thiếu vô tư trong sáng sẽ là điều lố bịch”. (trang 200)

Nhân dịp ấn ấn hành tác phẩm này, đây là lúc tôi có cơ hội được nói lời cảm tạ tấm thịnh tình của các nhà văn, nhà thơ trong Chương II đã ưu ái dành cho tôi những bài nhận định công phu sắc bén về Thơ Song Nhị.

Đây cũng là dịp tôi được nói lời cảm tạ đến các Nhạc sĩ đồng cảm đã đem thơ Song Nhị lồng vào dòng nhạc của các bạn. Số nhạc phẩm tôi có khá nhiều, nhưng cho tới nay chỉ mới thực hiện được một CD “12 Tâm Khúc…”.

Có một số bản nhạc của các nhạc sĩ Tô Dương Tử (Saigon 1969) và NS Hiếu Anh (Hoa Kỳ) đã qua đời, cùng một số bản nhạc khác bị thất lạc nên không có để in vào trong sách. Xin tạ lỗi. Nay các bạn đã ra người thiên cổ. 

Sau cùng xin được nói lời cảm tạ đến các nhà thơ đã ủy thác cho Cội Nguồn xuất bản tác phẩm để tôi có dịp được đọc và viết về thơ của quý bạn.

Xin cảm ơn nhạc sĩ trần Hưng Nguyên, người bạn tù và cũng là bạn văn nghệ đã nhiệt tình giúp tôi trong phần kỹ thuật thực hiện CD và các bản nhạc.
Sau hết, tôi xin cáo lỗi với một số nhà thơ khác như Ngân Phi Thư (Australia), Việt Bằng, Duy An Đông, Ngô Đức Diễm, Kha Lăng Đa, Mạc Phương Đình, Mặc Lan Đình, Lê Nguyễn…. mà bài viết của tôi về thơ của các bạn phần bị thất lạc, phần chưa hoàn chỉnh nên không in được trong quyển sách này.

Một số bài viết về các tác phẩm văn/truyện của các tác giả khác sẽ in trong tập “Khoảnh Vườn Văn”, đã hoàn tất bản điện tử và đang chờ đợi... được ấn hành.

Song Nhị, 4/2014


----------------------------
(*) Những nghịch lý của phê bình - Lại Nguyên Ân



Nói Chuyện Với Thơ


NÓI CHUYỆN V ỚI… NÀNG THƠ

Giới thưởng ngoạn nghệ thuật qua bộ môn thi ca, khi nói đến Thơ, người ta trân trọng gọi Thơ là Nàng Thơ hay Nàng Ly Tao (*).  Nói đến Thơ là nói đến một cảm xúc rất dịu dàng, rất mềm mại, rất thắm thiết, rất quyến rũ, và rất…. Nên Thơ.  

Đã hàng ngàn năm Nàng Thơ luôn luôn là người bạn đến với Tao Nhân Mặc khách trong mọi cảnh ngộ của con người, khi hạnh phúc an vui cũng như lúc nguy nan bất hạnh. Trong mọi hoàn cảnh, thơ đến với người như một an ủi, để vuốt trôi những uẩn ức hay những cảm xúc rạo rực của nỗi lòng.  

Thơ là một nghệ thuật riêng biệt của văn chương. Ngôn ngữ của thơ là ngôn ngữ đặc biệt, và riêng biệt đi kèm với cảm xúc của người làm thơ. Người thơ, khi đắm chìm trong trạng huống xao xuyến, do những rung cảm của con tim; do những trầm tư về một cảnh vật, về một con người, về những đoạn đời từng trải, trong một khoảnh khắc, cái âm-ỉ kia cuồn cuộn như cơn lốc xoáy để bật thành tiếng, và thơ hiện hữu như một hóa giải, như một đáp ứng tiếng réo gọi thôi thúc của tâm tư. Thế là ngôn ngữ thơ tràn ra trang giấy.

Cụ Bùi Kỷ cho rằng Thơ là phần kết tụ của khí hạo nhiên, một thứ hạo khí thuộc về phần hình nhi thượng của tạo hóa, để rồi từ đó tuôn trào ra đầu ngọn bút, trước những cảnh vật thiên nhiên, cũng như trước những cảm xúc của con người, như khóc, như cười, như say, như tỉnh, như bực dọc, như hả hê, như nhớ nhung, như khuây khỏa….

Người thời nay, như Mai Thảo thì lại nhận định: “Chỉ thơ, thơ mới là ngôn ngữ, là tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn chương”. 

Học giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần sau một đời người miệt mài với chữ nghĩa, đọc, viết và nghiên cứu văn học cuối đời đã đưa ra kết luận: “Thi sĩ các anh là con cưng của thượng đế. Rút cục chỉ có Thơ.”

Tóm lại, Thơ là sự thăng hoa tuyệt đỉnh của cảm xúc, tư tưởng và ngôn ngữ. Ngôn ngữ của thơ là ngôn ngữ đặc biệt, và riêng biệt đi kèm với cảm xúc của người làm thơ, mà người ta thường gọi là Năng Khiếu Thiên Phú.

Trong văn học Trung Hoa, từ thời đại xa xưa, Chu Hy cho rằng “nhân chi sơ tính bản tĩnh”. Từ “bản tĩnh”, do cảm xúc của dục tính mà “tĩnh” chuyển sang “động”. Và một khi tâm đã động thì trí sẽ vận dụng đến suy tư, khi đã suy tư thì phải thốt lên bằng tiếng nói. Lời nói không đạt tới được cái tận cùng của cảm xúc nên sinh ra vịnh thán. Khi đã vịnh thán thì không thể không vận dụng đến tiết tấu tự nhiên từ mối rung động xốn xang... Và từ mối rung động đó mà một thể tính cảm xúc xuất hiện. Người ta gọi đó là Nguồn Thơ.

Tất cả những người làm thơ đều có nguồn cảm xúc giống nhau, như nhau. Khác nhau là ở cái căn nguyên từ đối cảnh, đối tình của mối rung động. Nguồn cảm xúc ấy vượt lên trên, không chỉ là một tâm sự tách bạch. Một bài được gọi là thơ, diễn đạt để phô bày một tâm trạng chưa hẳn là một bài thơ, đó không phải là nguồn thơ. Nguồn Thơ là dòng chảy mênh mông bất tận, dẫu cho đến khi cuộc sống có mỏi mòn, thể xác kia có già nua thì nguồn thơ vẫn không tàn héo.

Còn nữa, còn nhiều lắm, nhận định của những danh nhân, học giả Đông Tây dành cho thơ.

Xin được mở dấu ngoặc ở đây để nói về Thơ Tình.

Tình đây là Tình Yêu. Theo như định nghĩa có nhuốm mùi triết học: Tình Yêu là sự tra vấn, kiếm tìm, săn đuổi, để chụp bắt một cái gì, như có, như không; như có đó mà không có đó, rất thật mà không có thật; không có bây giờ, nhưng có thể có ở ngày mai, hoặc có ở lúc này, nhưng ngày mai không chắc sẽ có. Và vì vậy, tình yêu như một ngọn sóng cuốn hút con người, hết thế hệ này đến thế hệ khác, cứ thế tiếp tục một cuộc săn đuổi, kiếm tìm bất tận.

Xuân Diệu, khi viết bài thơ với câu mở đầu: “Yêu là chết trong lòng một ít”, tuyệt nhiên không phải là một định nghĩa về tình yêu như nhiều người vẫn gán ghép, mà là do cảm xúc nội tại về sự xao xuyến của cõi lòng về một mối tình, một đối tượng đang còn săn đuổi, khi chưa đạt được cứu cánh, chưa qua thời kỳ quá độ.

Nguyễn Bính, khi làm bài thơ Người Hàng Xóm với bốn câu mở đầu:

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có mối buồn giống tôi
là lúc thoát thần, thú nhận một cảm xúc trào dâng, để bao nhiêu ý tưởng, suy nghĩ trào ra thành một “bản tự thuật” của trái tim thi sĩ.

Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi
Tôi buồn tự hỏi: “hay tôi yêu nàng?”

Chính cái hư hư thực thực, của cảm giác có, không, không, có của nhu cầu tâm lý ấy, mà những khoảnh khắc bất chợt của cảm xúc bùng vỡ bất ngờ, làm cho Thơ vụt hiện. Cùng với cảm xúc bùng vỡ, ngôn ngữ cũng bất thần xuất hiện, ăn khớp nhịp nhàng với rung cảm, để ý tưởng tuôn trào thành thơ. Những ngôn ngữ bộc phát lúc bấy giờ, có khi vô nghĩa với người ngoại cuộc, nhưng lại rất tâm đắc với chủ thể của mối rung động, phát ra thành Thơ.

Tất cả ngôn ngữ, cảm xúc đó chỉ thể hiện trong cái khoảnh khắc rung động ấy thôi, sau đó là hết, là mất hẳn. Sau đó nếu có cố vận dụng cách nào đi nữa, cũng không bao giờ tái tạo được cái cảm giác kỳ ảo, đi kèm với những ngôn ngữ tuyệt diệu kia.

Bài thơ làm xong, giây phút đó qua đi, từ đó không bao giờ có lại cái cảm xúc lần thứ hai như vậy nữa. Đối tượng từ từ chìm khuất, và con tim ngủ yên.  Loại thơ này khác với những bài thơ tìm ý, tìm chữ, ghép vần.

Người thơ khi đắm chìm trong trạng huống tâm tư như thế, do những rung cảm của con tim; do những trầm tư về một cảnh vật, một con người, về những đoạn đời từng trải, trong một khoảnh khắc cái âm-ỉ kia cuồn cuộn như cơn gió xoáy để bật thành tiếng, và thơ hiện hữu như một hóa giải, như một đáp ứng tiếng réo gọi thôi thúc của tâm tư.

Sau đây là một bài thơ được viết ra trong một cung cách như thế.  Tác giả cũng xin “thú nhận” bài thơ được viết trong trạng thái con tim ray rứt, khắc khoải về một đối tượng, như một cơn khát dữ dội, con tim đòi hỏi phải đuợc nói ra. Thế là ngôn ngữ thơ tràn ra trang giấy. Bài thơ làm xong, giây phít đó qua đi, từ đó không bao giờ có lại cái cảm xúc lần thứ hai như vậy nữa. Đối tượng từ từ chìm khuất và con tim ngủ yên. 
Loại thơ này khác với những bài thơ tìm ý, tìm chữ, ghép vần.

Góc Phố Này Mỗi Đêm

Cảm ơn em cho tôi đề tài
để làm bài thơ dạt dào cảm xúc
bài thơ không cần người đọc
khi viết xong đem thả giữa trời

Cảm ơn em những buổi sớm mai
ra khỏi cửa để thấy mình ngớ ngẩn
như chiếc xe lạc đường luẩn quẩn
chạy lòng vòng không tới ngõ nhà em

Tôi trở về nghe nhịp đập con tim
nhìn thấu suốt con đường lên phố núi
Tôi hối hả chạy quanh dòng suối
kiếm tìm em ... gặp kẻ vô tình
Tôi trở về hỏi lại con tim
nghe thỏ thẻ toàn những lời mộng ảo!

Cảm ơn em đã làm nên giông bão
để tôi ngồi trần trụi ngó phong ba
cảm ơn em vườn cây trái phù sa
đã bỏ mặc kẻ cơ hàn đói khát
đã bỏ mặc - gã thâm tình - tệ bạc
tiếc tiếng xưng em tiếc tiếng gọi mình

Bên cánh rừng em hát với bình minh
mà quên mất góc phố này mỗi tối
         
Cảm ơn em - không có gì để nói      
mà còn rất nhiều không thể bỏ quên
tôi trở về ngồi suốt sáng thâu đêm
tưởng như thể chuyện long trời lở đất

Cảm ơn em ...
đành một lần lỡ mất!

Song Nhị
=

Hiệu chính 4/2017
Song Nhị

----------------------
(*) Ly Tao - tên tác phẩm vận văn (văn vần) của Khuất Nguyên đời Chiến Quốc, là trường thiên xưa nhất của văn học Trung Hoa.


Sunday, July 15, 2018

NGUỒN SỐ 65 NĂM THỨ 15 THÁNG 8/ 2018



NGUỒN
ISSN 2157 - 6440    
SỐ 65 NĂM THỨ 15 THÁNG 8/ 2018

TẠP CHÍ SÁNG TÁC NHẬN ĐỊNH PHÊ BÌNH
DIỄN ĐÀN VHNT CỦA CSTV CỘI NGUỒN

Tạp Chí Tiêu Chuẩn Quốc Tế số Lưu Ký Tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ:
ISSN 2157 - 6440

Chủ Đề:
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT 1950 - 1956

Publisher/ Chủ Nhiệm  ªLÊ VĂN HẢI
 Editor-inChief / Chủ Bút ªSONG NHỊ                                                      
Subeditor/ Thư ký Tòa soạn: ª HÙNG VĨNH PHƯỚC
Editors/ Columnists/ Biên tập/ Chuyên mục: DIÊN NGHỊ ªCUNG DIỄM 
CỘNG TÁC:
HÀ BẮC ª ẤU TÍM ª TUỆ NGA ª HÀN THIÊN LƯƠNG ª PHAN THỊ NGÔN NGỮ ª PHAN THÁI YÊN ª ĐẶNG LỆ KHÁNH ª HƯƠNG GIANG ª HUỆ THU ª HỒ LINH ª LÊ ĐÌNH CAI ª THANH THƯƠNG HOÀNG ª TRẦN KIÊM ĐOÀN  ª  ĐOÀN THANH LIÊM ª TRIỀU NGHI ª ĐỖ BÌNH  ª DU SƠN ª CAO THẾ DUNG  ª BÁT TÚ TRẦN HỮU TỪ ª BIỆN THỊ THANH LIÊM ª NAM GIAO ª THỦY LÂM SYNH ª CAO NGUYÊN ª NGỌC BÍCH ª TRỊNH TOÀN ª NGUYỄN VY KHANH ª TRÀM CÀ MAU ª NGUYỄN LIỆU ª THƯ SINH ª VI KHUÊ ª TIỂU MUỘI ª PHƯƠNG VINH ª XUÂN ĐỨC ª TÚ LẮC ª VŨ THỊ THIÊN THƯ ª VÕ Ý  ª LÊ DIỄM ª TIÊU DUY ANH ª LT ĐÔNG PHƯƠNG ª HẠ HUYỀN ª HÀ VIẾT TỊNH ª VƯƠNG NHÂN ª 
TRONG SỐ NÀY:

Wednesday, April 25, 2018

Tháng Tư Bảy Lăm


tháng tư bảy lăm

tháng tư tan tác mảnh đời
hồn xiêu phách lạc rã rời thế gian
đất trời phủ một màu tang
nước non lật ngược một trang sử buồn
em nhàu tuổi mộng sắc hương
ta neo thân giữa pháp trường quỷ ma
máu loang thắm khắp sơn hà
muôn dân trăm họ khóc òa oán than!

Song Nhị
tháng tư 2018

Tuesday, March 27, 2018

Nửa Thế Kỷ Việt Nam - Châu Về Hiệp Phố (*)


Trong cuốn NTK.VN tôi có dành tám chương viết về tù cải tạo. Ở đây xin dành một chương có niềm vui và hạnh phúc sau một hành trình đày đọa, đau đớn và tủi nhục của quan chức quân cán chính VNCH trong các trại tập trung cải tạo...


 CHÂU VỀ HIỆP PHỐ (*)
(Chương XVII)

Xin từ biệt một cảnh đời,
tường xây cửa sắt tình người lạnh căm
Xin từ biệt những tháng năm
mồ hôi máu lệ nhục nhằn đắng cay.

Có biết bao chuyện hợp tan trên đời – thương hải tang điền – xưa nay từng xé lòng bứt ruột thế nhân. Trong đời tôi, đã bao lần trầm lòng trước những cuộc hợp tan não nuột – Ngày rời bỏ quê hương bản quán ra đi biền biệt đến bây giờ; ngày xách túi hành trang với vài bộ quần áo, từ giã gia đình, đành đoạn bỏ lại những yêu thương bịn rịn để ra đi “trình diện” vào tù, từ đó tôi cứ mãi nôn nao với những lần hợp tan, tan hợp. Khi rời Quảng Ninh về Thanh Hóa, nhìn lại phía sau núi rừng trùng điệp heo hút, tôi cứ mãi chập chờn với lẽ thịnh suy. Người cộng sản không thể lường trước được viễn ảnh của việc đưa hàng nghìn tù từ trong Nam ra rồi lại phải đưa trả về Nam.

Nhưng lần rời khỏi cái “địa ngục trần gian” trại Lam Sơn, Thanh Hóa sau hơn hai năm tủi nhục, đắng cay, mồ hôi nước mắt và sinh mệnh con người, tôi cứ mãi miên man với niềm vui, nỗi buồn, với khổ đau và hạnh phúc, như xen lẫn, hòa trộn vào nhau trong giờ ăn giấc ngủ, trong tim óc, trong cuộc sống của tôi, cho tới mãi hơn 20 năm sau, khi ngồi viết lại những dòng hồi ức này vẫn như chuyện mới ngày hôm qua hôm trước.

Người ta xây thiên đường hạ giới bằng ảo tưởng, để chúng tôi, cùng nguồn cội Âu Cơ bị đẩy vào địa ngục trần gian có thật, bởi cuồng tín giáo điều và lòng thù hận. Năm năm với hầm phân hố xí, với xích sắt, gông cùm, với khai hoang, phá rẫy, đắp bờ, đào ao, làm nhà, dựng trại, xây xà lim; Năm năm bo bo, khoai sắn, chén nước canh, nước muối, chén cơm gạo hẩm, bữa có bữa không, đói rách, khổ nhục, đọa đày... Giữa bóng đêm mù mịt ấy, ánh sáng lờ mờ phát ra từ hai bóng đèn đoàn tàu Xuyên Việt rọi sáng niềm tin và hy vọng – “Hy vọng đã vươn lên trong màn đêm...” – Đoàn tàu ngày nào chở những đoàn tù bất hạnh ấy ra đi, nay đang chở họ trả về phương Nam, nơi có những bà mẹ già, có những người vợ trẻ, có những đàn con thơ, có bao người thân thuộc, và có cả một đất trời đang ngày đêm chờ đợi, ngóng trông. “Chúng ta sẽ về Nam”.

Chúng ta sẽ về Nam. Đó là điều tôi đã quả quyết với nhiều anh em trong những lúc bàn luận riêng tư. Thời gian còn ở phân trại B, tù cải tạo được yêu cầu khai thân nhân và địa chỉ ở nước ngoài, nếu có. Một số anh em không dám khai vì sợ bị gài bẫy, sợ bị đánh lừa để “người ta” tìm cách chất chồng thêm tội, có lý do kéo dài thêm thời gian giam giữ. Nhưng cũng có người tin tưởng “sẽ có chuyện gì đây”. Họ nghĩ ai có thân nhân ở nước ngoài chắc sẽ được cho xuất cảnh. Họ mạnh dạn liệt kê đầy đủ. Tôi không sợ bị gài bẫy, cũng không nghĩ sẽ được tống xuất, nhưng tôi cũng nghĩ chắc “có chuyện gì đây”. Tôi ghi ra hết những người có liên hệ họ hàng mà tôi biết đang ở nước ngoài. Tôi không có một thân thuộc trực hệ nào, nên tôi chỉ ghi một người cháu gọi tôi là cậu ruột ở Pháp và hai người bà con xa ở Mỹ. Chỉ nguyên sự việc này đủ là một đề tài để suy luận, bàn tán.

Trong một lần “tán gẫu mà chơi”, tôi đưa ra lập luận: Nếu chúng ta không chết, chúng ta phải được thả về, mà về thì chắc chắn chúng ta không thể sống với chế độ này được, và đã chắc gì chế độ để cho chúng ta sống chung. Như vậy chúng ta phải ra nước ngoài, và chế độ cũng muốn chúng ta đi cho nhẹ gánh. Điều kiện thuận lợi nhất để ra đi là phải có thân nhân ở nước ngoài bảo lãnh.  Nghe tôi nói có vẻ xuôi tai, hai người ngồi cạnh tôi, một là bạn tôi, và người thứ hai là anh Ng. V. K. (Chánh Sở T.P. BTL/CSQG) sau đó nhắn vợ ra thăm để dặn người bạn đời của mình hãy về thu xếp mà vượt biên, tìm tương lai cho con cái. Cả hai bà vợ làm theo lời chồng, làm theo ý muốn của người bạn “trăm năm”. Nhưng sau khi đến được bến bờ tự do, trong hoàn cảnh bơ vơ đơn chiếc, cả hai bà đi tìm bến đậu. Khi biết chuyện, tôi cứ mãi băn khoăn. Không biết có phải vì suy nghĩ vu vơ của mình mà nên nỗi bẽ bàng cho người đi kẻ ở.

Điều mong muốn của tôi đã trở thành niềm tin sắt đá “Chúng ta sẽ về Nam”, cuối cùng đã thành sự thật. Không khí sinh hoạt nề nếp sắt máu của cả trại tù bỗng vỡ bùng, xô ngã mọi trật tự chặt chẽ qua một hệ thống quản lý khắt khe từ Ban Giám thị xuống đến “Ban tự quản” gồm thi đua, trật tự, đội tưởng và tổ trưởng.

Trong thời gian mấy tháng trước đó Ban Giám thị đã tìm mọi cách đính chính, trấn an và trấn áp dư luận về việc chuyển trại về Nam. Chính những con người trong “ban tự quản” từng theo dõi, báo cáo những ai phổ biến “hot news”, loan truyền “tin thất thiệt”, giờ phút đó họ ngỡ ngàng, có lẽ cả hoang mang giao động. Quyền lực, với chút đặc ân, đặc lợi đã vuột khỏi tầm tay.

Hot news trong trại tù phải được kể là một món ăn tinh thần bồi bổ nhất. Khi một người được thăm nuôi về đến buồng, nhiều anh em xúm lại, không phải để “xơ múi” miếng bánh, cục kẹo, mà là để nghe ngóng tin sốt dẻo. Có những hot news nghe là tin được, tin ngay như trường hợp vợ  anh A cho biết anh B. cạnh nhà đã được chuyển từ ngoài Bắc về Rừng Lá, gia đình vừa đi thăm tuần trước. Cũng có những tin nghe xong phải để đó, phải coi lại. Tin ngay có khi bị hố! Như trường hợp của tôi. Hồi ở chung buồng giam tại phân trại B Thanh Hóa, Ông Đ/tá (Thiết giáp) nói với tôi, sáng 30 tháng Tư ông ấy có mặt tại Tòa đại sứ Mỹ ở đường Thống Nhất, khi biết mission di tản chấm dứt, Nghị sĩ Đặng Văn Sung, Chủ nhiệm báo Chính Luận đã rút súng tự tử ngay tại sứ quán Mỹ. Tôi tin, tin lắm vì đó là lời nói trực tiếp của một con người đáng tin, không có gì để phân vân ngờ vực. Sang đến Hoa Kỳ, mấy năm sau đọc báo, tôi mới hay điều tôi tin chắc như bắp suốt bao năm ròng chỉ là tin vịt. NS Đặng Văn Sung đã được Mỹ đưa đi trước giờ thứ hai mươi lăm.

Một lần khác, tôi nghe một bạn tù hát mấy câu “Bao năm qua rồi còn mãi ra đi. đi theo loanh quanh cho đời mỏi mệt, trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm một cõi đi về”. Cả nhạc và lời hay quá, từng chữ từng câu đều đắt giá. Tôi hỏi và được trả lời là của nhạc sĩ Phạm Duy. Rồi người bạn tù kể tiếp, nhạc sĩ Phạm Duy chết rồi. Chết trong khi đang ôm đàn, đang đứng trên sân khấu hát một ca khúc thương xót thân phận đồng bào ở lại và những người tù đang chịu đựng khổ đau. Vì quá xúc động, ông bị ngất xỉu trên sân khấu và một lúc sau ông qua đời.

Tôi tin, tin lắm và tôi học thuộc mấy câu trong ca khúc “bao năm qua rồi còn mãi ra đi...” thuộc đến bây giờ. Qua lời ca và giọng nhạc, tôi “nghi ngờ” là của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhưng lại tin lời người bạn tù với cái hot news về NS Phạm Duy rất là cảm động. Khi được thả về Sài Gòn, có một lần duy nhất tôi được nghe bản “Huyền Thoại Mẹ” của TCS do chính tác giả hát trên Truyền hình, nhưng không hề nghe bài “Một Cõi Đi Về” cho tới ngày sang đến Mỹ. Đến Mỹ lần hồi quen thân với nữ nghệ sĩ Kiều Loan, ái nữ của nhà thơ Hoàng Cầm, mới hay nhạc sĩ Phạm Duy còn sống sờ sờ ra đó, còn sáng tác nhiều bản nhạc khác để đời. Và “bao năm qua rồi còn mãi ra đi...” là của người nhạc sĩ họ Trịnh.

Hot news trong tù là một “món quà” thời thượng để tặng nhau làm niềm vui, làm niềm tin và hy vọng. Có những hot news từ ngoài lọt vào, độ khả tín rất cao, nhưng cũng có những hot news do tù sáng tác, phịa ra để đánh lừa các  bạn mình và có khi đánh lừa cả chính mình nữa. Nhưng hai lần hot news ầm lên khắp trại Quảng Ninh năm 1978 và ở trại Lam Sơn năm 1980 thì hoàn chính xác. Tin đồn đại ấy chỉ không loan báo được ngày giờ di chuyển chứ các chi tiết khác diễn tiến như mọi người đã được nghe bàn tán trong dư luận.

Dưới con mắt người tù cải tạo, mọi chi tiết xẩy ra bên lề đều được ghi nhận, suy diễn, đánh giá và lượng định tình hình. Một phái đoàn từ phân trại A đến phân trại C cách đó mấy ngày, trong đoàn có đại tá công an Hoàng Thanh đã củng cố cho tin chuyển trại trong dư luận là điều chắc chắn. Mỗi lần ông Hoàng Thanh xuất hiện là có chuyển trại hay có một “cái gì đó”. Trước ngày tù xuống tàu Hồng Hà ra Bắc, ngày rời Quảng Ninh về Thanh Hóa, ngày dẹp xong cuộc nổi loạn của tù cải tạo tại phân trại C đều có sự xuất hiện của nhân vật này.


TRÊN CHUYẾN TÀU XUÔI NAM

Cuộc “chuyển quân” khởi động vào sáng sớm ngày 26 tháng 12 -1980. Đúng 8 giờ từng tốp cán bộ vào các buồng giam ra lệnh mọi người đem hết hành trang ra ngoài sân. Một danh sách đánh máy thành lập những đội mới đã được lập sẵn. Hệ thống biên chế tổ đội trước đó coi như xóa sổ. Các thành phần chức sắc cách đó mấy tiếng đồng hồ còn đủ uy quyền để chỉ thị, để ra lệnh cho mọi người, bấy giờ đứng lơ ngơ như gà con mất mẹ. Trong danh sách mới, cứ 29 người được biên chế thành một đội. Số đội viên được lấy từ các đội khác phân tán trộn lẫn vào những đội tân lập. Có lẽ cốt ý của việc làm này là để tránh những cuộc trả thù giữa thành phần tiến bộ và thành phần bị áp bức trong khi di chuyển. Con số 29 người trong mỗi đội, một người được cử làm đội trưởng, khi lên tàu được thong thả đi lại trong toa, còn 28 người kia thành 14 cặp cho tiện còng chung, ngồi cùng dãy ghế.  Tôi không có tên trong đội nào, đang hoang mang, chạy lui chạy tới thì quản giáo đội cũ, Lê Minh C. từ ngoài đi vào, gặp tôi bên cổng vào sân buồng giam, ông ta hỏi tôi:

- “Anh ở đội nào”?

Tôi nói dối:

– “Tôi vào trong buồng lấy đồ đạc, trở ra không nghe kịp. Nhờ cán bộ hỏi cán bộ Thơm giùm tôi”. CB Thơm là người đứng đầu bộ phận an ninh của trại. Trước đó khoảng hơn một tuần lễ, anh “thi đua HNĐ” dẫn ông ta vào trại gặp tôi nhờ bóp lưng và lên lai hai cái quần tây “Made in France” mới toanh. Tôi xin nghỉ lao động một buổi để làm, nhưng được nghỉ luôn cả ngày. Buổi chiều trước giờ lao động ngoài đồng trở về, ông ta vào lấy quần. Ông ta rất vừa ý khi thấy hai cái quần “chiến” sửa lại rất nhà nghề “professional”, mặc dù là tôi làm bằng thủ công. Người cán bộ này hỏi tôi –“Anh cần gì không? Tôi nói –“Cán bộ cho tôi xin một cái quần (tù) để tôi mặc đi lao động. Mùa này lạnh lắm, tôi mặc hai lớp cho đỡ rét”. Ông ta quay sang bảo anh “thi đua”, -“Anh về lấy cho anh ấy cái quần mới”. Nhưng sau đó tôi không nhận được cái quần, có lẽ biết sắp chuyển trại nên không cần thiết cho thêm quần làm gì.

Cho tới giờ này, khi ngồi ghi lại chi tiết tủn mủn này tôi vẫn nghĩ là người cán bộ an ninh này đã “trả ơn” tôi bằng quyết định thêm tên tôi vào danh sách về Nam phút chót. Cán bộ quản giáo, ông Lê M. C. trở vào nói với tôi:

- Anh thế chỗ anh Nguyễn Tấn Khải ở đội 39.

Tôi nhờ ông ấy đi với tôi đến bảo cán bộ và “tân đội trưởng” ghi tên giùm tôi cho chắc ăn. Thế là tôi thế chỗ một người, mà người đó không bao giờ được lên một chuyến tàu khác trở về với gia đình ruột thịt, với miền Nam thân yêu. Ông Nguyễn Tấn Khải là một trong ba người bị giữ lại vì không đủ sức khỏe lên tàu. Cả ba sau đó đều chết ở Thanh Hóa. Còn tôi, thay vì ở lại cùng các bạn khác đi ra Thanh Cẩm thì đã được về Nam như một sự xui khiến, phù hộ ... nào đó.
Vì tôi thế chỗ “ông già Khải” nên tôi còng chung với Trung tá CSQG Trần Văn Hương, tuổi tác ông ngang bậc cha chú của tôi. Trong suốt bốn ngày đêm trên tàu một già một trẻ kể cho nhau nghe rất nhiều chuyện của nhau.

Chúng tôi lên xe từ phân trại C khoảng 9 giờ sáng ngày 28 tháng 12 -1980. Đến ga Thanh Hóa tất cả được dồn vào trong một cái kho chứa phân bón A-pa-tit. Loại phân hóa học này đựng trong từng bao lớn cỡ bao gạo 20 kg. Từng lớp, từng lớp gối đầu lên nhau, nằm la liệt trên bao phân sắp ngổn ngang nơi cao nơi thấp. Mọi cảm giác khổ sở, mệt mỏi rã rời, sau một chuyến xe đường dài và nằm chen chúc trong tối tăm hôi hám được an ủi khuây nguôi trên nét mừng vui của mỗi người trước giờ phút cuộc đời tù tội bắt đầu đổi hướng quay trở ngược về Nam. Cũng có một đôi lần lời qua tiếng lại, cự nự lẫn nhau khi người này đạp lên đầu người kia trong bóng tối mù mờ.

Có một điều tôi không thể không nói ra, bởi nếu tôi im lặng, lãng quên quá khứ, tôi là kẻ vô ơn. Khuya đêm 28 tháng 12 vào lúc 11 giờ 30 người cán bộ quản giáo Lê M.C. cùng với một người công an khác rọi đèn pin đi kiểm soát an ninh, ông tìm đến tôi trong gần một ngàn người tù nằm ngổn ngang la liệt. Tìm được đội 39, ông ấy rọi đèn pin bước một cách khó khăn lại chỗ tôi nằm, lên tiếng:

- Anh TKL đấy hả.

Tôi trả lời – Thưa cán bộ, vâng tôi.
– Anh có rét lắm không?

- Thưa cán bộ, không lạnh vì người đông chen chúc, hơi người toát ra đủ ấm.

Ông ta trao cho tôi hai điếu thuốc lá “Summit” sản xuất tại Thái Lan, bật hộp quẹt mồi lửa cho tôi, và dặn.

- Hút cho đỡ rét. Về trong ấy hết lạnh lại được gần gia đình.

Tôi thực sự cảm động về cử chỉ này nên nói lời chân thành:

- Địa chỉ của tôi khai báo rất nhiều trong hồ sơ, cán bộ biết. Bao giờ có dịp vào Sài Gòn công tác mời cán bộ ghé nhà tôi.
Ông ta trả lời gián tiếp – Anh nằm nghỉ.  Rồi quay di. Tôi nói theo - Chào cán bộ. 

Khi được thả về Sài Gòn tôi không gặp lại người cán bộ này lần nào nữa.

Thời gian từ tháng 6-1979 đến cuối năm 1980 tôi ở trong đội trừng giới do người cán bộ này làm quản giáo. Tôi không là đội trưởng, tổ trưởng nhưng “gần gũi” nhiều với quản giáo qua quan hệ “nhờ vả” vá may. Những bộ quần áo mới lãnh về, rộng hẹp, ngắn dài là giao tôi sửa. Cái sơ mi cổ áo bị rách sờn nhờ tôi lật trong ra ngoài. Vài ba cái áo vàng công an phế thải giao tôi lấy những thân áo còn dùng được cắt may thành cái áo cho đứa nhỏ cỡ năm ba tuổi. Có lần ông ta đưa cho tôi một xấp vải Simili loại may quần, và cho biết có người đi Ba Lan về bán lại cho. Nhờ tôi cắt may cho cái quần tây. Dĩ nhiên tôi làm công việc này thì khỏi phải lao động, khỏi cuốc đất đào mương... Tôi làm việc trong “nhà lô” ngoài đồng ruộng, hoặc ngồi vào một lùm cây, khuất vắng nào đó rị mọ từng mũi kim. May xong cái quần tây, tôi không thể tưởng tượng là “tác phẩm” của chính mình. Tôi nhớ hồi đầu thập niên 50 bố mẹ tôi rước một thợ may từ làng xa đến nhà may một cặp áo cưới bằng gấm để cưới vợ cho ông anh cả của tôi. Không dè 30 năm sau nhân loại bước vào đỉnh cao kỷ nguyên cơ khí, tôi lại trở về với thời kỳ thủ công sơ đẳng.

Trong thời gian “làm việc” gần gũi với người cán bộ quản giáo này, chưa bao giờ ông ta hỏi một câu nào về riêng tư của tôi, và cũng không bao giờ ông ta gợi ý muốn biết về sinh hoạt hay về một cá nhân nào trong đội. Ngược lại tôi cũng không bao giờ mở lời hỏi một câu gì về ông ta, ngoài những câu trao đổi về may vá.
Đúng 1 giời sáng chúng tôi bị đánh thức dậy mang hành trang tù ra ngoài bãi sắp hàng, ngồi xổm dọc theo đường ray chờ lên tàu. Hơn bốn tiếng đồng hồ sau đoàn tàu mới xình xịch chạy tới. Bốn tiếng đồng hồ ngồi giữa đồng không mông quạnh, giữa cái giá rét mùa đông miền Bắc, nhiều người áo ấm bỏ trong túi hành lý không lấy ra được nên đành ngồi chịu trận. Tôi là một trong số người mặc một lớp áo tù mong manh chịu cái lạnh đến tê điếng. Ông già Trần Văn H. nhờ có cái áo bốn túi CSDC khoác ngoài hai lớp áo tù nên có vẻ an nhiên hơn một chút. Hơi lạnh thấm vào tim gan phèo phổi, làm cái dạ dày quặn lại, sinh biến chứng đau bụng đi tiêu. Nhưng “đi” không phải là việc đơn giản. Phải xin phép cán bộ dẫn đi. Phải có người đứng canh chừng. Phải được “bạn đồng hành” chấp thuận đi theo, nếu người này không có nhu cầu giải quyết thì cũng phải ngồi cạnh người kia, vì hai người chung nhau một cái còng. Hai cổ tay dính nhau, mang chung một trọng lượng khoảng một kg sắt với cái còng XHCN tự chế, không phải loại còng made in USA gọn nhẹ như lúc đi ra Bắc. 

Khoảng 5 giờ sáng khi vầng dương đã ló dạng lờ mờ, chúng tôi lục tục lên tàu. Tù ngồi các hàng ghế phía trước. Cách hai hàng ghế trống, phía sau là công an súng dài, súng ngắn ngồi giàn hàng ngang. 28 người còng chung ngồi thành từng cặp. Người tù đội trưởng ngồi riêng một ghế, được tự do đi lại, lui tới trong toa để nhận lệnh và thi hành những điều cán bộ sai bảo. Mệnh lệnh được công bố lúc chúng tôi đã ngồi yên trên các hàng ghế trong toa tàu:

- “Tất cả mọi người phải ngồi yên tại vị trí của mình, ai cần điều gì thông qua đội trưởng để báo cáo cán bộ. Khi đi qua những khu có dân cư, và lúc tàu đậu tại các ga, phải kéo cửa sổ toa tàu xuống, nếu không dân sẽ ném đá vỡ đầu các anh. vì dân chúng còn căm thù các anh lắm”!

Luận điệu này chúng tôi đã từng được nghe, được nhắc nhở ngày chúng tôi lên tàu và lúc mới đặt chân lên miền Bắc. Nhưng thực tế, nếu mấy ông cộng sản nói ra những câu hù dọa đó mà nghe người dân miền Bắc nói thì chắc chắn các ông phải hiểu là những cục đá thay vì ném lên đoàn tàu chở tù về Nam họ sẽ dành cho chính các ông ấy. Thời gian chúng tôi vừa tới Quảng Ninh, đi lao động về, gặp đám tù hình sự, gặp dân họ chào hỏi dòn dã:

- “Ngoài Bắc chúng tôi chờ bác Thiệu, bác Kỳ ra giải phóng. Các bác làm ăn, đánh đấm thế nào để ra nông nỗi này?”
Nghe câu nói đó từ những người miền Bắc, dù họ cũng là người tù, là dân quê mộc mạc, tôi cảm thấy ngỡ ngàng xa xót. Một lần khác một tù cải tạo trong đội Lâm sản gặp một người miệt núi, cả hai đều tỏ ý muốn nói chuyện với nhau. Người tù miền Nam đánh liều mon men tới hỏi thăm, sau vài câu trao đổi, người “miệt nuí” ấy nói như là để trao gởi tâm sự:

– “Các anh giữ sức khỏe để còn sống mà trở về. Đừng nghe lời chúng nó. Bịp cả đấy”. 

Người tù miền Nam không dám phụ họa theo nhưng nghe mạch máu trong người chảy rộn rã. Tại trại Z30A Xuân Lộc, vào một buổi chiều người cán bộ Chuẩn úy công an vào tổ may, giọng miền Bắc, tên anh ta là Khuê. Trong câu chuyện giữa đám tù thợ may và người cán bộ này, ông ta nói rất mạnh dạn, rất thành thật:

– “Các anh tưởng đám lính chúng tôi sung sướng lắm hả? Ban ngày họ mang súng đi theo các anh lao động, đêm về vác súng canh gác cho các anh ngủ. Các anh đun nấu mùi thơm bay lên nức trời. Chúng tôi hưởng cái mùi thơm ấy à?”

Một anh trong đám thợ may cố ý châm thêm: “Nhưng cán bộ là sĩ quan, rồi cán bộ cũng sẽ có đủ những ưu đãi dành cho cấp chỉ huy, cho công bộc nhà nước. Cán bộ còn trẻ mà”.

- “Ưu đãi cái gì các anh? Đời sống là kinh tế, mà muốn có kinh tế thì phải có chính trị. Chính trị thì phải cỡ ông Đồng, ông Duẫn mới muốn gì được nấy chứ  như chúng tôi ...”

Người cán bộ này bỏ lửng cuối câu, rồi nắm lấy cái thân áo màu rêu đang mặc, đưa cao lên và lớn giọng:

 – “Các anh bảo... hãnh diện đéo gì cái áo này”!

Tôi ngước mắt nhìn vào người cán bộ này và nhìn các anh em khác. Mọi người đều tỏ ra ngạc nhiên về tính bộc trực hiếm thấy trong gọng kìm kỷ luật sắt của đảng. Ông này bất mãn, sáng suốt, tỉnh ngộ hay gài bẫy? Có thể không có giả thiết sau cùng. Với nhiều kinh nghiệm “đừng nghe những gì cộng sản nói”, nên đoàn tù chúng tôi lặng lẽ thản nhiên.

Trở lại hành trình về Nam, một chuyến xe lửa ngược chiều chạy ngang qua đoàn tàu chở tù. Tốc độ vừa phải. Tất cả anh em chúng tôi bảo nhau cùng đẩy cửa sổ toa tàu, giơ cao hai cánh tay dính chặt với nhau bằng một chiếc còng nội hóa. Loại còng này gồm hai vòng sắt hình chữ U, hai đầu đập dẹt có khoan lỗ. Một thanh sắt lớn cỡ ngón tay trỏ, một đầu có nút chặn, đầu kia có lỗ để móc ống khóa. Tay hai người tù đặt vừa vặn vào vòng chữ U, thanh sắt xỏ qua bốn lỗ đầu chữ U, một ống khóa tra vào bóp lại. Trọng lượng còng nặng cả kí lô, vô cùng chắc chắn.

Hành khách bên toa tàu ngược chiều cũng mở cửa sổ, quay sang nhìn. Khi thấy những cánh tay, những chiếc còng “vĩ đại” giơ lên, tôi thấy một người phụ nữ ôm mặt òa lên khóc và có tiếng nói vọng sang –“Tàu chở tù. Các anh ấy về Nam”. Đó là lần đầu tiên chúng tôi tiếp xúc với thế giới bên ngoài sau năm năm cách ly khỏi cộng đồng xã hội loài người, ẩn mình trong rừng núi với cảm giác trở về thời người vượn.

Cho tới giờ này tôi vẫn chưa có gì để biết chắc được – có lẽ có, có lẽ không – một trong những hành khách trên chuyến tàu ngược chiều ấy là bà xã tôi. Theo những anh em, những người bạn sau về Sài Gòn gặp nhau, các anh cho biết một ngày sau khi tôi lên tàu, thì nhà tôi ra thăm.
Có những người bạn của tôi từ thưở đi học, đi làm, cả “chàng rể phụ” đám cưới chúng tôi, đi lao động gặp nhà tôi giữa đường cho nhà tôi hay là tôi đã về Nam. Nhà tôi ngỡ ngàng vừa vui, vừa buồn, vừa lo. Vui khi biết chồng mình đã được trả về “nguyên quán”. Buồn vì vượt cả ngàn cây số gieo neo mà không được gặp. Không được gặp thì rồi sẽ gặp. Nhưng mà lo. Lo vì chặng đường trở về biết bao gian lao cực nhọc, “thân gái dặm trường”. Cái dặm trường từ nhà ga Thanh Hóa đi bộ vào đến trại tù, đến nhà thăm nuôi trên dưới mấy chục cây số thật là cơ cực. Nắng nóng, đất bụi, bùn sình. Có đoạn may mắn đón được chiếc xe trâu có từ trước “thời Pháp thuộc” thì đỡ thân một chút. Có chiếc xe, nó cõng bớt những giỏ xách, những bao bị cồng kềnh chứa toàn những là gạo, là mì, là muối mè, muối sả, là cá khô, là đường, là sữa... không có những món “thượng vàng” nhưng “hạ cám” thì có đủ.

Người tù chúng tôi không bao giờ buồn lòng, vì chúng tôi biết cả toàn dân sau cuộc đổi đời đều sống thoi thóp bằng những thứ “hạ cám” như chúng tôi thôi. Để vơi bớt “cục nợ” phải khuân vác trở về, nhà tôi quyết định trở ra nhà dân xin tá túc thêm 24 giờ để sáng hôm sau xin thăm gặp người bạn partner của tôi. Về đến Sài Gòn ngày hôm trước, hôm sau, cùng bố mẹ và ba má đến trại Z30A thăm chồng. Lần này thì chúng tôi gặp nhau trong niềm hân hoan. Tin yêu tràn ngập.


NHỮNG NGHĨA CỬ ÂN TÌNH
GIỮA HẬN THÙ GIĂNG MẮC

Trên chuyến tàu về Nam, từ ga Thanh Hóa qua Đồng Hà, Quảng Trị, Huế, Diêu Trì, Đà Nẵng, Nha Trang, tới Phan Thiết, Dầu Giây, khi tàu chạy qua nơi nào có nhà ở, có người hai bên đường, chúng tôi đều bảo nhau mở hết cửa sổ toa tàu, giơ cao hai cánh tay dính nhau bằng chiếc còng “đỉnh cao trí tuệ” để chào mừng đồng bào, chào mừng bà con miền Nam ruột thịt.. Những bà con, đồng bào hai bên đường khi chuyến tàu chạy qua, chúng tôi không biết ai là kẻ yêu, người ghét. Chúng tôi không tin có những “cục đá ném vào đầu” mà mong chờ đón nhận những cái vẫy tay, những nụ cười, những lời chào hỏi từ đồng bào, đồng loại thương yêu mình.
Ở ga Thanh Hóa đã có những cặp mắt tò mò dửng dưng nhìn theo đoàn tù. Có một vài em bé bán nước, mời ly nước chè xanh:

– “Uống đi, cháu không lấy tiền ông đâu”.

Qua giọng nói và tấm òng của em bé, những nguời tù chúng tôi chứng kiến hôm đó có chút gì như ngạc nhiên và cảm động. Càng đi dần về phía Nam, chúng tôi càng gặp nhiều ngạc nhiên, xúc động, có khi đến chực rơi nước mắt. Từ ga Huế trở vào có những lúc, nhất là khi tàu ngừng lại, người hai bên đường, ném lên toa tàu tới tấp – thuốc lá, bánh mì, bánh chưng, bánh đúc, cam, bưởi... những món quà tình nghĩa từ những bà mẹ, những em nhỏ buôn thúng bán bâng, từ những cậu con trai phải bỏ học nửa chừng để kiếm sống bằng những việc làm lam lũ. Gói thuốc lá, trái cam, cái bánh... giữa cảnh ngộ và thời buổi đó đã toát ra một nghĩa tình cao quý, vượt lên trên tất cả những cái tầm thường bé mọn ở những “đồng loại” hơn năm năm bên nhau trong lao tù, đáng ra phải đồng cam cộng khổ.

Đối với chúng tôi nghĩa cử đó chính là vòng Nguyệt Quế dành cho kẻ trở về, dù vẫn đang trong bộ áo tù, tay trong chiếc còng nặng trĩu. Có một lúc tôi như giật mình khi nghe một thiếu niên hát vang vang: “như có bác Hồ trong thùng phi đậy nắp, mở nắp ra nghe cái ‘cốc’ trên đầu”.

Thì ra sau hơn năm năm người dân miền Nam đã biết “bác Hồ” là ai. Tôi nhớ ngày 1 tháng 5-1975 một anh Nhân dân Tự vệ ở cạnh nhà tôi, tuổi dưới hai mươi đi ra đường xé những tấm ảnh “bác” dán ở những cột đèn, những bờ tường, dọc theo đường Trần Quốc Toản cũ (3 tháng 2) và khu ga xe lửa Hòa Hưng, cậu ta liền bị bắt đưa đi cải tạo hơn nửa con giáp mới được thả về. cậu này tên là Thủy, được định cư tại Mỹ theo diện HO. 

Trước năm 1975, người dân miền Nam không biết “bác” và không hiểu một chút mô tê gì về chủ nghĩa mà “bác” mang về làm nền móng cai trị cho chế độ do “bác” dựng lên.  Nhờ chế độ của “bác” mà lịch sử có những trang đẫm máu của Cải cách Ruộng đất, của Nhân văn, Giai Phẩm, của Tết Mậu Thân, của biến cố  30. 4. 1975.  Không phải đợi đến năm năm, mà chỉ năm bảy tháng, một năm, sau khi được nhìn tận mặt, được tiếp cận từng ngày là người dân đã biết, biết rất rõ những gì “bác” làm, những gì “bác” để lại cho hậu thế trước nông nỗi trăm cay nghìn đắng. Càng hiểu biết bác, hiểu biết chế độ của bác, người dân, kể cả một bộ phận người dân miền Bắc, càng thấy thương, thấy tội nghiệp cho đoàn tù, cho quân cán chính miền Nam, lớp người đã từng đem máu xương, sinh mạng để xây dựng và bảo vệ miền Nam Tự do ấm no và hạnh phúc.
Chuyến tàu thống nhất nối lại tuyến đường sắt, nhưng đã không nối lại được tình người, không nối lại được tình tự dân tộc. Vì vậy những người cán bộ công an hộ tống trên toa mới bảo chúng tôi kéo kín cửa, kẽo người dân “còn căm thù” sẽ ném đá vỡ đầu.
Sau ngày 30.4.75, tuyến đường chở ngược hướng Bắc những đoàn tù biệt xứ, cùng với hàng hàng những chuyến tàu chở đầy chiến lợi phẩm nhưng đã không làm vơi dịu được phần nào cảnh bần hàn nheo nhóc của ba mươi triệu người dân suốt 20 năm gồng mình xây dựng XHCN và chiến tranh thôn tính. Thù hận vẫn thù hận. Nghèo đói vẫn nghèo đói. 
Rồi tình thế cũng đến ngày đổi chiều, xoay ngược. Từng chuyến tàu liên tiếp chở đoàn tù xuôi Nam. Đoàn tù trở về nhận từ tấm lòng người dân biết bao cảm tình nồng mặn. Khi đoàn tàu qua khỏi ga Hàm Tân, có tiếng người bên vệ đường thông báo: – Các anh về Xuân Lộc. Những người cán bộ hộ tống không bao giờ tiết lộ nơi chúng tôi sẽ đến, nhưng khoảng 30 phút trước khi tàu về đến sân ga, công an bảo vệ ra lệnh mọi người thu xếp đồ đạc gọn gàng để chuẩn bị xuống tàu. Biết được nơi đến, không ai bảo ai, mỗi người đều lấy giấy bút ghi địa chỉ gia đình để báo tin cho thân nhân. Trước đó có một vài nhân viên hỏa xa đi lại trong toa. Có người đã mạnh dạn giúi miếng giấy vào tay, người nhân viên toa tàu cầm lấy, lặng lẽ bước đi. Khi tàu giảm tốc độ xuống rất chậm, một nữ nhân viên hỏa xa trạc tuổi trên dưới ba mươi đi qua, tôi đưa cái địa chỉ và nói nhỏ.
– Tôi nhờ cô gửi bưu điện giùm. Cô ta mỉm cười, một nụ cười rất thiện cảm, cầm miếng giấy địa chỉ bỏ vào túi.

Khác với một số anh em phó mặc cho may rủi, riêng tôi, tôi tin lời nhắn của tôi sẽ được chuyển tới nhà. Rất đông anh em khác, hoặc được gợi ý từ nhân viên quét dọn tàu, hoặc vì hết cách nên cứ bỏ đại vào hộc đựng tàn thước lá, hộc đựng rác cạnh thành tàu.

Có người ba ngày sau gia đình đã lên thăm. Môt số đông gia đình đến thăm sau một tuần lễ. Về sau kiểm chứng lại chúng tôi được biết tất cả những ai có miếng giấy nhắn tin đều được các nhân viên trên chuyến tàu chia nhau mang tới tận từng nhà. Gia đình thân nhân của tù xin được trả tiền xích lô, tiền xăng nhưng không một ai chịu nhận.  Nhà tôi khi lên thăm cho biết có một cô mang giấy nhắn tin đến, gia đình trả tiền xích lô nhưng cô ấy từ chối. Nhà tôi hỏi thăm được biết người nữ nhân viên này quê Nam Định, vào Nam năm 1977. Đó là một con người miền Bắc từng được nhồi nhét từ nhỏ ý thức căm thù Mỹ Ngụy. Nếu như toàn thể mọi người Việt Nam xóa hết được tâm lý hận thù như những người công nhân bình thường ấy thì may mắn cho dân tộc biết chừng nào. Cho đến bây giờ chúng tôi không quên những ân tình quý báu giữa thời buổi hận thù giăng mắc ấy.

-------------------------
(*) Châu Về Hiệp Phố, tên một quận xưa ở Giao Châu là nơi sản xuất ngọc trai (châu) nổi tiếng. Tương truyền vào thời hậu Hán có vị quan tham ô tàn bạo, thường bắt dân lặn xuống biển tìm ngọc châu. Vì thế ngọc châu bỏ đi hết sang quận Giao Chỉ. Mãi đến sau khi Mạnh Thường về thay chức Thái thú và bãi bỏ đạo luật cũ, ngọc châu lại trở về Hợp Phố. Ý nói những gì quý giá, không mất đi thì sớm muộn cũng quay về chủ cũ.