Sunday, July 15, 2018

NGUỒN SỐ 65 NĂM THỨ 15 THÁNG 8/ 2018



NGUỒN
ISSN 2157 - 6440    
SỐ 65 NĂM THỨ 15 THÁNG 8/ 2018

TẠP CHÍ SÁNG TÁC NHẬN ĐỊNH PHÊ BÌNH
DIỄN ĐÀN VHNT CỦA CSTV CỘI NGUỒN

Tạp Chí Tiêu Chuẩn Quốc Tế số Lưu Ký Tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ:
ISSN 2157 - 6440

Chủ Đề:
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT 1950 - 1956

Publisher/ Chủ Nhiệm  ªLÊ VĂN HẢI
 Editor-inChief / Chủ Bút ªSONG NHỊ                                                      
Subeditor/ Thư ký Tòa soạn: ª HÙNG VĨNH PHƯỚC
Editors/ Columnists/ Biên tập/ Chuyên mục: DIÊN NGHỊ ªCUNG DIỄM 
CỘNG TÁC:
HÀ BẮC ª ẤU TÍM ª TUỆ NGA ª HÀN THIÊN LƯƠNG ª PHAN THỊ NGÔN NGỮ ª PHAN THÁI YÊN ª ĐẶNG LỆ KHÁNH ª HƯƠNG GIANG ª HUỆ THU ª HỒ LINH ª LÊ ĐÌNH CAI ª THANH THƯƠNG HOÀNG ª TRẦN KIÊM ĐOÀN  ª  ĐOÀN THANH LIÊM ª TRIỀU NGHI ª ĐỖ BÌNH  ª DU SƠN ª CAO THẾ DUNG  ª BÁT TÚ TRẦN HỮU TỪ ª BIỆN THỊ THANH LIÊM ª NAM GIAO ª THỦY LÂM SYNH ª CAO NGUYÊN ª NGỌC BÍCH ª TRỊNH TOÀN ª NGUYỄN VY KHANH ª TRÀM CÀ MAU ª NGUYỄN LIỆU ª THƯ SINH ª VI KHUÊ ª TIỂU MUỘI ª PHƯƠNG VINH ª XUÂN ĐỨC ª TÚ LẮC ª VŨ THỊ THIÊN THƯ ª VÕ Ý  ª LÊ DIỄM ª TIÊU DUY ANH ª LT ĐÔNG PHƯƠNG ª HẠ HUYỀN ª HÀ VIẾT TỊNH ª VƯƠNG NHÂN ª 
TRONG SỐ NÀY:

2. BBT NGUỒN  ………………………………………………..….  Cảm Tạ
3. THƯ TÒA SOẠN  ……………..…. 65 năm Cải cách Ruộng đất
5. TIN VĂN ……………………..………….…..…. 23 năm VH Cội Nguồn    
7. ĐỖ BÌNH ................................  VN Cuộc vùng day toàn quốc          
13. JONATHAN LONDON ..............................  Triển lãm CCRĐ          
14 LÊ KHẢ SĨ ..................................................... Tiển lãm CCRĐ
16. WIKIPEDIA/ SONG NHỊ ………………….... CCRĐ ở Việt Nam 
19. CHU LYNH ………………………………………………………..Phỏng Vấn
22.HÀ VIỆT TĨNH ………………… Hồi Ức của một Nhân chứng
24. NGUYỄN VĂN THẠNH ...................... Suy ngẫm về CCRĐ
26. LÊ QUANG VINH .................. Cuộc hành hình cụ Nghè Cơ
31. NGUYỄN CAO CAN ….……………………….….… Từ CCRĐ 
……………………..  thử nhìn về cái chết của dân tộc Việt
34. TỔNG HỢP CUỘC CCRĐ ….…………………….….… Nguồn
58. BÙI TÍN ............ Nhìn lại cuộc CCRĐ – Những bài học
67. NGUYỄN ĐIỀN ……………………….......... Nhìn lại cuộc CCRĐ
81. TRẦN GIA PHỤNG ……........... CCRĐ – Tội ác diệt chủng
85. BBC ………………............... Nhìn lại cuộc CCRĐ Ở Việt Nam
92. LÊ ĐÌNH CAI ………………..…… Vài nhận định về tác phẩm
95. ĐÔNG A PHÚC NHẠC…………..…... Từ truy tô đến CCRĐ
99. NGUYỄN QUANG DUY ….……………….. Bà Cát Hanh Long
114. TRẦN KIÊM ĐOÀN ..…………………...….…  Du lịch Tàu
119. TRẦN BÁ XÁ ………………………….……... Truyện – Anh cò Lẫm
124. HỒ LINH ……………….…….. Câu chuyện khởi đầu tại làng tôi
131. HÀ BẮC ….……………………….….  Mộng Cầm Ca - Truyện
135. NGUYỄN LIỆU ……………….…….... truyện – Thôi anh về
144. NAM GIAO ................. Truyện - Người điên ở ấp Phú
148. TÔN NỮ ÁO TÍM …………..Truyện - Nắng Hoàng hôn

Thơ  
CUNG DIỄM 103   ª ĐẶNG LỆ KHÁNH 113  ª ĐỖ THỊ MINH GIANG 80 ª DU SƠN 118 ª HÀN THIÊN LƯƠNG 61 ª  HỒ LINH 91 ª HOA VĂN 113 ª HÙNG VĨNH PHƯỚC 57 ª  MẶC LAN ĐÌNH  116 ª NAM GIAO 134 ª PHAN THỊ NGÔN NGỮ  65 ª PHƯƠNG VINH 29 ª NGỌC BÍCH 117 ª SONG NHỊ 15 ª SONG LINH 15 ª TIỂU MUỘI 18 ª TUỆ NGA 87 ª TRƯƠNG XUÂN MẪN 98 ª TRIÊU NGHI 130 ª  VĂN CAO  25 ª  VƯƠNG NHÂN 144  ª 

 Bìa: Ảnh nguồn: Nhiếp ảnh gia Liên Xơ Dmitri Baltermants (1912-1990) chụp tại Miền Bắc Viet Nam năm 1955.

CO SO THI VAN COI NGUON
Developing Culture and Public Charity of the Vietnamese Community
A Non-Profit based Organization since 2004
P.O. Box 3648 San Jose, CA 95156-3648  
Email: coinguonus@gmail.com –  


ĐẠI DIỆN TẠP CHÍ NGUỒN:

Paris : Mme.Trần Bạch Sương 115 Avenue Carnot 78700 Conflans St Honorine, France   E-mail: doc.phan@wanadoo.fr - Tel: 01 39 19 22 64
Washington DC: Xuân Đức  7712 Glenister Dr. Springfield, VA 22152
Tel: (571) 499 8186
Houston, Texas - Trần Hữu Từ: 6603 Pouter Drive, Houston, Texas 77083.
E-mail: trantuhoi123@yahoo.com - Tel: 832 230 1467 or (408) 960 3025
Nam California : Võ Ý 10200 Bolsa Ave., Spc 112 Westminster, CA 92683
E-mail: tamthe4422@yahoo.com - Tel: (714) 262 6272
Hawaii – Mss. Thúy Hồng: 1943 Kilolani Pl., Honolulu, Hawaii 96819
- Tel: (808) 398 5179

Cảm Tạ
Ban Điều Hành CSTV Cội Nguồn xin chân thành cảm tạ:
- Cộng đồng Việt Nam Bắc California cùng toàn thể đồng hương hiện diện trong tiệc kỷ niệm 23 Năm VHCN.
- Nghị viên Nguyễn Tâm thay mặt Thị Trưởng Sam Ricardo tham dự và trao bằng Tuyên dương của Hội đồng TP San Jose cho CSTV Cội Nguồn.
- Nhà báo Hoàng Dược Thảo và tuần báo Sài Gòn Weekly
- Quý văn thi hữu, quý ân nhân, bạn đọc sau đây yểm trợ hiện kim, đặt mua báo, gởi bài cho Nguồn và tiếp tục ủng hộ ấn phí để Tạp chí được hiện diện trên văn đàn và trao gởi đến bạn đọc:
Nhà thơ Du Sơn 200USD, Ông Tony Dinh 500. LS Nguyễn Công 600. Ô. Trần Kim Tâm/Công ty Double T Electric Inc. 500. BS Nguyễn Kế Khoa 500. TS Hoàng Cơ Định 200. TS Trần Minh Lợi 100. Cô Kim-Ha H. Ho 200. LS Nguyễn Tâm 100. Ông Đỗ Trọng Linh 100. Nữ nghệ sĩ Mai Hân 100. Nhà thơ Mặc Lan Đình 60.00


Thành Kính Tưởng Niệm
Các Văn Nghệ sĩ từng cộng tác, gắn bó với Nguồn đã về Cõi Vĩnh Hằng

Nhà Thơ Duy Năng, nhà thơ Hà Ly Mạc, nhà báo Cao Sơn, nhà báo tự do Phạm Bằng Tường, GS Nguyễn Ngọc Bích, Nhà thơ Hà thượng Nhân, nhà thơ Phương Vinh, nhà thơ Nguyễn Thuận Đính, nhà thơ Quang Tuấn, nhà thơ Dị Sỹ/ BS Phạm Nguyên Lương..

Thư Tòa Soạn                                                           
Nước đi ra biển lại mưa về Nguồn  Tản Đà

65 NĂM CẢI CÁCH
RUỘNG ĐẤT 1953 - 2018

Ngày 6 tháng 5 - 2018 Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn mở tiệc kỷ niệm 23 năm sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật tại nhà hàng Phú Lâm, TP San Jose, California.  Bữa tiệc thu hút trên 220 quan khách tham dự. Điều này đã nói lên sự quý mến của đồng hương tỵ nạn CS tại hải ngoại nói chung, và San Jose, California nói riêng dành cho chúng tôi. Đồng thời đây cũng là một sự đánh giá những thành tựu đáng khích lệ của Cội Nguồn trong ý hướng phục vụ Văn Học nước nhà và văn hóa Việt Nam tại hải ngoại... 

Số báo này - Nguồn 65 là số báo “Nhìn Lại 65 Năm Cuộc Cải Cách Ruộng Đất” (1953-1956), tính từ ngày  12-4-1953 HCM ban hành sắc lệnh số 150 SL về Cải Cách Ruộng đất cho đến giai đoạn cuối (1955-1956) là giai đoạn sôi sục, dã man tàn ác khủng khiếp nhất, phủ trùm lên khắp miền Bắc và các tỉnh phía Bắc Việt Nam, từ Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa trở ra.    
Trong suốt dọc dài lịch sử VN (ngoại trừ cuộc chiến Bắc Nam (1955-1975) chưa có một biến cố nào làm tổn hại nhân mạng nhiều nhất, như cuộc CCRĐ (1950-1956). LS Nguyễn Mạnh Tường, trả lời báo Quê Mẹ khi du lịch sang Pháp sau năm 1975, ông nói: “Lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc đến nay chưa có một cuộc thanh trừng, giết dân nào khủng khiếp tàn bạo như cuộc CCRĐ..”; “Các đội CCRĐ không từ một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra phản động”, “tìm ra của chìm”, ép buộc con cái “đấu tố” cha mẹ, con dâu “đấu tố” bố mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ, vợ “đấu tố chồng”, anh em “đấu tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” kẻ ban ơn, láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau...
Người được đề cử thi hành chính sách sửa sai, Ông Nguyễn Minh Cần, nói: “...Với chỉ tiêu ác độc phải giết địa chủ ở mỗi xã cho đủ 5% dân số hoặc nhiều hơn càng tốt, càng được khen thưởng”. Những cuộc hành hình như thời trung cổ... Sửa sai chỉ là một cách xoa dịu, chứ sửa thế nào được khi nhà cửa trả lại đã bị gỡ hết cửa sổ vách tường chẻ làm củi đốt, cây cối bị đốn, vườn tược bỏ hoang và người bị bắn, bị giam chết rồi sửa làm sao được nữa...”
Thành viên một đội cải cách năm 1955 Ông Nguyễn Đăng Mạnh viết trong hồi ký: “Cải cách ruộng đất đúng là một sai lầm nghiêm trọng. Bắt oan, giết oan hàng vạn người. Mà thật ngu xuẩn. Làm sao địa chủ lại nhiều thế: 5%! Và làm sao mà Quốc dân đảng lại có ở khắp mọi nơi.

BS Phạm Hồng Sơn khẳng định “Việc đảng Lao Động VN phát động CCRĐ, được cụ Hồ gọi là ‘cách mạng long trời lỡ đất’, vào năm 1953. Bao trùm toàn bộ ‘cách mạng’ này là sự tuỳ tiện của chính phủ cụ Hồ trong việc bắt giữ, hành hạ, bắn giết, tịch thu gia sản đối với hàng trăm nghìn người Việt Nam..” 
Có ý kiến cho rằng “Yếu tố bạo lực có nguồn gốc bộc phát từ hận thù giai cấp và cá nhân đã được tích lũy bao đời nay trên những cánh đồng lúa. Địa chủ trở thành chỗ cho dân nghèo trút cơn giận dữ vì cuộc sống khó khăn của họ, số khác thì vì ghen tức với tài sản của địa chủ...” (Hoàng Tùng).
Theo chúng tôi, đã từng sống trong xóm làng và kinh qua suốt thời kỳ CCRĐ thì không hề có hiện tượng “hận thù giai cấp” trong cuộc sống thuận hòa êm ả ở nông thôn. “Hận thù giai cấp” chỉ nảy sinh và trở thành cuồng nộ của một số bần cố nông khi “đội cải cách” mớm vào đầu óc họ, tuyên truyền nhồi sọ, hứa hẹn một tương lai ảo tưởng để biến họ thành những kẻ hung ác mất hết tính người.. Cũng vậy, nước mắt HCM khi nhìn nhận sai lầm trong CCRĐ chỉ là “nước mắt cá sấu”.
Cuộc CCRĐ nếu kể từ năm 1953 đến nay đã 65 năm nhưng vết thương vẫn còn rỉ máu. Nhiều ý kiến nhận định, như những tiếng kêu than, thay cho nỗi đau thương thống khổ không những cho các nạn nhân mà cho cả dân tộc trong thời kỳ bất hạnh đó. - “Bi kịch CCRĐ kéo dài trong không gian và thời gian, chồng chất ngày càng nhiều những đau khổ và tàn phá đất nước và dân tộc” (Bùi Tín). Họ (ĐCS) còn món nợ với ít nhất hàng ngàn oan hồn (Nguyễn văn Thạnh – suy ngẫm về CCRĐ).
“Cái mất mát lớn bởi sai lầm trong CCRĐ là nó phá vỡ mất cái nông thôn Việt Nam và phá vỡ mất lòng tin. Cái nguy hại của CCRĐ là ở chỗ nó phá vỡ một tế bào quan trọng vào bậc nhất của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là làng quê” (Học giả Hoàng Xuân Hãn). 
Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945 - 2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan.
Trong khi tổ tiên chúng ta cũng như các dân tộâc khác kêu gọi, khuyến khích đồng bào, đồng loại thương yêu đùm bọc lẫn nhau thì đảng csvn lại chủ trương hận thù giai cấp dùng người Việt giết người Việt cho tham vọng thống trị, đưa dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ chủ nghĩa cộng sản tàn ác cho mãi đến ngày hôm nay.
Ban Biên Tập Nguồn

**
 
NGUỒN - Tin Văn

Hà Việt Tĩnh – Hạ Huyền tuyển đọc và giới thiệu


23 Năm Văn Học Cội Nguồn

Chủ Nhật, 6 tháng 3 năm 2018 CSTV buổi lễ Kỷ niệm 23 năm Văn Học Cội Nguồn và Tạp Chí Nguồn đã được tổ chức tại thành phố San Jose,. Đông đảo Văn nghệ sĩ, bạn đọc, mạnh thường quân và một số đại diện hội đoàn, cơ quan truyền thông đã đến tham dự.

Sau nghi thức khai mạc, chào quốc kỳ và mặc niệm, giới thiệu quan khách qua MC Hoàng Tuấn, nhà báo Lê Văn Hải, trưởng ban tổ chức, chào mừng quan khách, thân hữu... nhấn mạnh vai trò văn học hải ngoại, giới thiệu Tạp Chí Nguồn, một tạp chí văn học, trong suốt 14 năm qua đã phát huy, duy trì và phong phú hóa ngôn ngữ mẹ, với nhận thức rằng “Tiếng Việt còn, đất nước còn”, bền bỉ đấu tranh cho lý tường quốc gia, dân tộc chống đối và loại trừ những ảnh hưởng Mác-xít, độc đảng, độc quyền đang ngự trị trên quê hương. 23 năm qua, các tờ báo, các tạp chí chủ trương văn học nghệ thuật, sống bằng ngòi bút, bằng độc giả, đi chung với Nguồn nay đã đình bản hết chỉ còn riêng Tạp Chí Nguồn sau 14 năm vẫn còn tồn tại và tiếp tục đi tới...

Nhà văn Song Nhị, Trưởng điều hành Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn, chủ bút Tạp Chí Nguồn, tường trình sinh hoạt 23 năm qua, theo đó, kết quả tuy còn khiêm tốn, nhưng qua nổ lực của Cội Nguồn cũng như uy tín của tổ chức đã nhận được những khích lệ quý báu từ những vị mạnh thường quân, các văn nghệ sĩ hợp tác, cũng như đông đảo người đọc đặt mua tạp chí Nguồn, không chỉ tại lục địa Hoa Kỳ mà còn tại các quốc gia Âu châu và ngoài Hoa Kỳ. Đặc biệt Tạp Chí Nguồn được Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ đặt mua trọn bộ, công nhận là tạp chí tiêu chuẩn quốc tế và cấp mã số xuất bản riêng; đồng thời các thư viện các đại học như Cornell (New York), Utah, Chicago... cũng đã lưu trữ Tạp Chí Nguồn.

Tiếp theo, Nhà thơ Hùng Vĩnh Phước, thư ký tòa soạn Tạp Chí Nguồn, trình bày sinh hoạt dự định sắp tới của Cội Nguồn. Trước mắt, sẽ ấn hành tập thơ nhiều tác giả đã có thơ đăng trên Tạp Chí Nguồn, ấn hành tập II “Lẽ Đạo và Tiến Hóa” khoảng trên 1000 trang. của tác giả Nguyễn Thùy đang sinh sống tại Paris (tiếp tập I đã phát hành) và sẽ giới thiệu ra mắt bạn đọc một ngày không xa. Cả hai tập “Lẽ Đạo và Tiến Hóa”

Ngoài ra, Tạp Chí Nguồn số 65 cũng đang tập trung bài viết, với chủ đề Cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc thập niên 1950.
Trong phần phát biểu nhận định về Cội Nguồn và Tạp Chí Nguồn, Nhà văn Trần Kiêm Đoàn cho rằng Cội Nguồn đã nêu rõ ý nghĩa về một nền văn học không thể không có tại hải ngoại từ hơn ba thập niên qua, và cuộc đấu tranh dài lâu, mãi mãi vẫn là văn học. Cái thật sẽ thắng cái giả, cái lành cái đẹp sẽ thắng cái ác như một quy luật nhân sinh.
Tiếp theo phần trao giải thưởng Truyện Ngắn Tạp Chí Nguồn, Nhà báo Cao Ánh Nguyệt, chủ nhiệm Tuần Báo Phụ Nữ Bắc California, thay mặt Ban Tuyển Chọn trình bày quá trình tuyển chọn và đọc kết quả sau cùng.  Kết quả qua một cuộc bỏ phiếu và đã đồng thuận như sau:
- Môt giải Nhất dành cho truyện “Bản Hợp Đồng” của nhà văn Vũ Lưu Xuân.
- Một giải Nhì dành cho truyện “Thư Sáu Ruộng Gởi Về Đầm Dơi” của nhà văn Tràm Cà Mau.
 - Một giải Ba dành cho truyện “Trong Sách Có Hoa” của nhà văn Hồ Linh.
- Sáu giải Tư đồng hạng:
- “Con Dao Con Chó” của nhà văn Nguyễn Liệu.
- “Con Gà của Ông Dậu” của nhà văn Nhật Nguyệt
- “Xuân Về Trên Non Cao” của nhà văn Phan Thái Yên.
- “Ba Khuôn Mặt” của nhà văn Trần Tự Chi.
- “Hai Má Con Nó” của nhà văn Vũ Thị Điềm Đạm.
- “Trai Thời Loạn” của nhà văn Tôn Nữ Áo Tím.
Được biết Ban Tuyển Chọn, qua lời mời của Thi Văn Cội Nguồn, gồm có: nhà thơ Diên Nghị, nhà văn Thanh Thương Hoàng, nhà văn Trần Kiêm Đoàn, nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh, và nhà báo Cao Ánh Nguyệt và nhà văn Song Nhị, trưởng ban tổ chức giải.

Trước khi vào tiệc mừng, quan khách, văn nghệ sĩ, và mọi người cùng nâng ly rượu chúc mừng Cội Nguồn và Tạp Chí Nguồn. Phần văn nghệ phụ diễn có Đoàn Du Ca Bắc California và các ca sĩ tự do, cùng đoàn vũ Hoa Tiên đã trình bày những ca khúc dân tộc góp thêm phần ý nghĩa cho lễ kỷ niệm.        *Hạ Huyền

Biểu tình “Đả đảo bọn bán nước”
Lần đầu tiên sau 43 năm có một sự kiện chính trị quần chúng chấn động toàn quốc. Sài Gòn, Bình Dương, Mỹ Tho, Đà Nẵng, Nha Trang, Cam Ranh, Hà Nội, Nghệ An, Hải Dương... đều đồng loạt cất vang “Không Trung Quốc, Không đặc khu!”, “An ninh mạng, Bịt miệng dân!”. Đây mới thật sự là ngày “thống nhất đất nước” và ngày mà người dân thật sự được “giải phóng” bằng sự giải phóng chính mình khỏi nỗi sợ hãi chế ngự bám chặt trong trí não hàng chục năm. Đây cũng là ngày mà chế độ phải sửng sốt trước những hô vang “Đả đảo bọn bán nước”, “Đả đảo cộng sản bán nước”, “Đả đảo Việt gian”. Lần đầu tiên, người dân đã đàng hoàng và đầy dũng khí gọi đích danh những kẻ rắp tâm luồn cúi ngoại bang và manh nha đưa voi về dày mả tổ. Đây sẽ là ngày mà chế độ nhận ra một thực tế: họ bị mất niềm tin nhiều như thế nào. Họ cũng phải thừa nhận một “thách thức” mà họ vĩnh viễn không bao giờ đạt được: “Bán nước” không dễ chút nào. Xin cám ơn tất cả cô bác và anh chị đã xuống đường ngày hôm nay. Xin cám ơn những giọt mồ hôi, và cả máu, đã đổ xuống ngày hôm nay. Xin nghiêng mình cám ơn tất cả!    [*Mạnh Kim/ Dân Làm Báo]

Bạn đọc đón xem Nguồn sẽ dành cho chủ đề này trong một số báo tới..

***

ĐỖ BÌNH
Paris

Việt Nam
Cuộc Vùng Dậy khắp Mọi Miền Đất Nước (*)

 Người ta không thể lúc nào cũng sống với quá khứ vì tương lai mới cần thiết và quan trọng hơn, nhưng chỉ có những người bị bệnh mất trí mới quên ký ức. Kẻ muốn quên ký ức là muốn chạy trốn sự thật của dĩ vãng. Ngày nay thế giới đã có nhiều thay đổi, những tiến bộ vượt bậc của khoa học hiện tại tỏa sáng đầy hào quang vì đã mang phúc lợi cho nhân loại, nhưng vẫn không thể thay được lịch sử và qúa khứ!

***
Thế kỷ vừa qua nhân loại đã trải hai cuộc đại thế chiến mà hậu quả còn di hại mãi đến nay, nhưng khủng khiếp và ác độc hơn vẫn là hai chủ nghĩa: Phát Xít và Cộng Sản, cả hai đều độc tài vì quyền lực nằm trong tay một số nhà lãnh đạo, điểm giống nhau là mang tính bạo lực nên rất dã man. Trong cuốn Le livre Noir du communisme: Crimes tereur Repression do nhà xuất bản Robert Laffont  ấn hành, quyển sách đen về chủ nghĩa cộng sản: Tội ác, Khủng bố, Đàn áp. Sách dày gần 900 trang là một tập hợp công trình biên khảo của nhiều chuyên viên, sử gia, giáo sư đại học đã tổng kết chủ nghĩa cộng sản diễn ra từ quê hương của cuộc cách mạng tháng 10 Nga đến phần đất Châu Âu nạn nhân rồi lan sang Châu Á tới Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Lào, Cam bốt và ở các châu lục thế giới thứ ba. Chủ nghĩa cộng sản và  phát xít đều thi hàønh những biện pháp mạnh nhằm củng cố quyền lực của chế độ bằng cách trấn áp, khủng bố, thủ tiêu, tù đày v.v.. Ở cuối chương còn so sánh tội ác CS với chủ nghĩa Phát xít, khiến tội ác của hai chủ nghĩa đó ngút tận trời. Trong quyển “Death by Government” (Chết do chính phủ), tác giả Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa chính trị học đại học Yale thì cộng sản tại các quốc gia đã giết chết đồng bào của họ, như sau:
Liên Xô 61.911.000 người.
Trung Hoa cộng sản 35.236.000 người.
Quân phiệt Nhật 5.964.000 người.
Khmer đỏ 2.035.000 người.
Thổ Nhĩ Kỳ 1.883.000 người.
Cộng sản Việt Nam 1.670.000 người.
Cộng sản Ba Lan 1.585.000 người.
Cộng sản Nam Tư 1.072.000 người. 

Thế kỷ vừa qua thế giới đã kết tội CS là tội ác của nhân loại, do đó những tòa án về tội ác nhân loại được lập ra khắp nơi để xử tội những người có trách nhiệm. Người ta đã cho xây một đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial) tại Washington DC để tưởng niệm hàng trăm triệu người đã chết vì bạo lực CS.

Chủ thuyết Cộng Sản và Tư Bản đã xâm nhập Việt Nam gây nên một cuộc chiến Ý Thức Hệ làm hao tổn biết bao xương máu của dân tộc. Cuộc chiến bằng vũ trang chấm dứt vào 30 tháng tư năm 1975 nhưng sự tranh chấp giữa người Việt Quốc Gia và Cộng Sản lại càng trở nên gay gắt, và mãi đến hôm nay đã hơn 43 năm mà các thế lực cường quốc: Mỹ, Nga, Trung Cộng vẫn chưa từ bỏ ý định lôi kéo VN, cho dù sau bao nhiêu năm mượn dân tộc nhỏ bé nầy làm thí điểm để đọ vũ khí qua chiêu bài ý thức hệ, mục đích tối hậu cũng chỉ để buôn bán vũ khí và duy trì thế lực của các nước mạnh trên thế giới!
Chiến tranh chấm dứt người dân Việt tưởng rằng đất nước đã hòa bình, chiếc cầu Bến Hải được thông thương nam bắc một nhà, xóa bỏ những hận thù và nguyện vọng của tòan dân được an bình sau bao năm mong ước, nhưng sự thật qúa phũ phàng, nước mắt vẫn chảy vì một nền hòa bình khốn khổ!
Ngừng tiếng súng những giọt nước mắt vui mừng của mẹ già gặp lại đứa con sau bao năm xa cách, và những người anh em nhìn lại nhau ngấn nước mắt chưa khô thì các vết thương trên da thịt quê hương lại rỉ máu! Sau ngày hòa bình người dân đã thấy CS mở ra  hàng ngàn trại tù để nhốt hơn một triệu người gồm sĩ quan và công chức thuộc chế độ cũ. Khẩu hiệu “Không Có Gì Quí Hơn Độc Lập Tự Do” được dán khắp nơi kể cả trước cổng trại tù như hàm chứa sự mỉa mai đối với kẻ thua cuộc! Những chiếc loa phóng thanh luôn hô hào khẩu hiệu: “Chí Công Vô Tư, Cần Kiệm Liêm Chính”, nhưng kẻ chiến thắng đã vơ vét, cướp đoạt hết nhà cửa, tài sản những người giàu có rồi trấn áp và đuổi hàng triệu người thuộc chế độ cũ đi kinh tế mới một sự lưu đày trá hình nơi rừng thiêng nước độc. Nhiều người chịu không nổi nên đã quay lại thành phố  như những kẻ mất hồn vì phải sống vất vưởng nơi những vĩa hè, đầu đường xó chợ hay dựng những túp lều bằng bao cát trong các nghĩa trang để sống lay lất qua ngày! Trên các đài truyền thanh truyền hình và báo chí đảng vẫn lại ca ngợi tình người, kêu gọi lương tâm dân tộc bằng những lời đạo đức giả. «Lấy tình thương lấp sông Bến Hải để hàn gắn vết thương dân tộc và cùng nhau xây dựng lại đất nước». Khẩu hiệu, bích chương thì khắp nơi, nhưng đảng lại ngấm ngầm kích động vết thương lòng, gây chia rẽ hận thù dân tộc bắt  ép dân đi xem những tàn tích chiến tranh: “sản phẩm của Tội ác Mỹ Ngụy” giả tạo được trưng bày khắp nơi, và mãi đến hôm nay, 43 năm sau chiến tranh nhà cầm quyền CS vẫn quảng bá về những sản phẩm, những di tích chiến tranh qua những chương trình truyền hình đối ngoại nhằm bóp méo sự thật lịch sử để kết tội phe thua cuộc. Ngay từ lúc người CS mới chiếm được miền nam, trong tâm trí người dân lúc nào cũng lo lắng sợ hãi; vì trong quá khứ họ đã trông thấy những tội ác do CS gây ra khắp nơi trên quê hương, như vụ thảm sát Tết Mậu Thân năm 1968 ở Huế khiến hàng ngàn dân vô tội bị đập đầu và chôn sống! Xa hơn chút nữa, tội ác CS đã gây ra khi chủ nghĩa CS mới nhen nhúm ở miền Bắc, hàng ngàn thân hào nhân sĩ, địa chủ bị sát hại qua Phong Trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1931, tiếp đến  là Phong Trào Chỉnh Huấn 1951-1956 tố giác tính dã man và sự vô ơn bạc nghĩa của Đảng Cộng Sản đã vắt chanh bỏ vỏ ngay những người cùng hàng ngũ sau khi lợi dụng lòng yêu nước của họ qua chiêu bài chống thực dân. Trong quyển“Death by Government” giáo sư R.J. Rummel viết như sau: “Dưới lớp vỏ Việt Minh chống Pháp, cùng lúc họ thực hiện cuộc chiến tranh tán sát những người quốc gia không cùng đường lối với họ. Chưa hết, họ cũng tiêu diệt những người cùng trong hàng ngũ khi họ xem những người cộng sản đi chệch hướng”. Điển hình là vụ án Nhân Văn Giai Phẩm có biết bao trí thức văn nghệ sĩ đã có thời phục vụ dưới quyền lực của đảng họ đã bị quy tội phản động để dễ thanh trừng, loại được những đối tượng không ăn cánh hoặc để bịt miệng những trí thức văn nghệ sĩ đã phản tỉnh vì đã nhìn ra bộ mặt thật bỉ ổi của CS! Cùng thời gian ấy, Phong Trào Cải Cách Ruộng Đất phát động từ 1953-1956, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955 sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo  bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945 -2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài nghiên cứu: “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của  nhà báo Tú Gàn ngày 25/6/2007). Và sau nầy vào đầu thập niên 60 cũng xảy ra vụ án Chủ nghĩa Xét lại một vụ án tương tự như vụ Phong Trào Chỉnh Huấn loại bỏ những người theo Liên Xô, vì đảng lúc đó đang cung cúc nghe lệnh của Bắc Kinh.

Với những bài học quá hãi hùng đã xảy ra trên quê hương giúp cho người dân miền Nam sáng mắt hơn khi lấy quyết định chối bỏ ngay “thiên đường ớn lạnh chủ nghĩa” mà người anh em miền Bắc đã tận tình “chia xẻ”! Họ bỏ của chạy lấy người, cố tìm đường tẩu thoát, vượt biên bằng đường bộ hay đường biển, cho dù phải trả một giá rất đắt trên con đường bôn tẩu. Hơn nửa triệu người đã bỏ mình trong lòng đại dương,  và bao người đã gục ngã  làm mồi cho muông thú, cho bọn cướp hải tặc. Cuộc ra đi tìm tự do của người VN  là một thảm cảnh bi đát nhất trong lịch sử chạy trốn của nhân loại!

Từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ toàn khối Liên Xô tan rã, chủ nghĩa CS cáo chung thì đảng CSVN lại càng run sợ nên đã vội vã mở cửa kêu gọi thế giới vào đầu tư, và réo gọi tình tự dân tộc để mồi chài những Việt kiều bằng ngôn ngữ thân thương “khúc ruột ngàn dặm” mà trước nay đảng đã không tiếc lời thóa mạ, hãy trở về xây dựng đất nước và cứu nguy đảng.

Thế kỷ mới thế giới chuyển mình toàn cầu hóa, Việt Nam cũng phải biến theo sự chuyển động đó nên đã được gia nhập vào khối cựu thù ASEAN cho dù sự hội nhập có khập khễnh nửa Xã Hội Chủ Nghĩa nửa kinh tế thị trường để cố lết theo. Nhưng tiếc thay nền kinh tế tư bản sẽ không bao giờ đồng hành với Chủ Nghĩa Xã Hội. Có người ví: “Chủ Nghĩa Xã Hội là đường rày, đảng là người lái tàu lửa và nhân dân là hành khách. Đường rày lăn vào hướng hố thẳm, thế   là đảng giết hết nhân dân!”.
Lúc mới chiếm được miền Nam những người lãnh đạo CS đổ thừa cho quê hương vừa trải qua chiến tranh, đất nước còn nghèo đói nên nhiều khó khăn, nhưng sau bao năm đổi mới VN vẫn  là một trong những nước nghèo đói và tham nhũng nhất thế giới thì đổ thừa cho ai? lợi dụng tình trạng nghèo đói của đất nước do sự quản lý kém của tầng lớp cán bộ CS, giới tài phiệt quốc tế bắt được thời cơ đãõ đem tiền của đổ vào biến VN thành một nơi tiêu thụ rửa tiền,  và thuê đất thuê rừng để lập nên những công kỹ nghệ tiêu thụ như: Công xưởng làm gìay dép, công ty du lịch, bãi biển, hotel, nhà hàng, sòng bạc, vũ trường... tạo thành một thứ phồn vinh giả tạo, cũng từ những công trình đó cán bộ CS có thể cắp xén, tham nhũng làm giàu. Để tạo sức mạnh vây cánh cho phe nhóm, giới chức có quyền thế đã cấp thêm nhà đất hóa gía cho một số người thân tín sau đó tăng giá nhà đất, đây là bộ máy đàn áp sẵn sàng dùng họng súng để bảo vệ chế độ!

Xã hội đầy bất công, sự chênh lệch giàu nghèo giữa giai cấp mới tư bản đỏ tỷ phú, triệu phú dollar và tầng lớp dân chúng nghèo quá rõ nét do đó tiếng dân than oán bất mãn khắp nơi tạo thành một làn sóng chống đối. Để duy trì quyền lực, đảng đã bất chấp thủ đoạn thi hành chính sách hai mặt xiết chặt chính trị trấn áp đối kháng, kiểm sốt chặt chẽ thông tin báo chí, mặt khác nới lỏng tự do, biến đất nước thành khu vực ăn chơi thụ hưởng khiến tệ đoan xã hội càng ngày càng trầm trọng. Ngày nay sự trụy lạc, tha hóa gấp ngàn lần thời thuộc địa  và chế độ cũ, nạn mãi dâm, hút xách xảy ra khắp nơi, đạo đức suy đồi nền giáo dục băng hoại! Kể từ sau ngày «giải phóng» đất nước triền miên đói rách, những năm gần đây nhờ tiền của ngoại quốc đổ vào đầu tư bộ mặt của một số thành phố có thay đổi, những dãy biệt thự sang trọng, những khu nghỉ mát lộng lẫy dành cho giai cấp tư bản đỏ; những dãy nhà cao tầng trong các phố thị dành cho ngoại quốc mướn. Chỉ riêng những người Việt ở hải ngoại gởi về hàng năm lên đến mười mấy tỷ dollar góp phần nâng mức sống của giai cấp đỏ. Một số cán bộ đảng viên trở nên giàu có thành đại gia nên có điều kiện tiêu xài phung phí đã khiến thanh niên bắt chước đua theo lao vào ăn chơi. Sự tha hóa của xã hội, cộng thêm đời sống nghèo đói của những người dân vùng sâu vùng xa khiến những trẻ em dưới vị thành niên bỏ học vì cha mẹ không có tiền nuôi con ăn học! Số thanh niên ở thành phố bỏ học đa số chỉ vì thích đua đòi với chúng bạn mà tiền bạc lại khó kiếm, gia đình phải chạy gạo từng bữa nên các em đã sẵn sàng bán thân kiếm tiền hầu bắt kịp mode thời đại, thỏa mãn cơn say vật chất thời kinh tế thị trường tràn ngập hàng ngoại quốc lậu! Để kiểm soát tư tưởng và kiềm hãm sự bất mãn dẫn đến xung đột, đấu tranh, đảng khai thác tính ủy mị để người dân mất tính đề kháng, quên đi tình trạng thiếu tự do dân chủ, vận mạng của dân tộc đang rơi xuống đáy thẳm vì họa Trung Cộng, nên Film ảnh, băng video được nhập vào và trình chiếu toàn là những film tình sướt mướt, ủy mị. Đảng tích cực khuyến khích mở những sòng bạc công khai, để người dân lao đầu vào đen đỏ,̉ quên đi sự vất vả trong cuộc sống hằng ngày như: LôTô, xổ số, cá ngựa, số đề, bóng đá cá độ... Những quán nhậu, nhà hàng, bia ôm, quán karaoke, vũ trường mọc ra như nấm để thanh niên vui chơi say đắm trong men rượu, hưởng thụ những lạc thú. Tệ hại hơn nữa là dịch vụ buôn bán ma túy, nạn hút sách khắp nơi, đảng biết nhưng vẫn lờ đi, vì công an: bộ máy đàn áp và mafia đã cấu kết nhau thao túng xã hội đen để làm gìau. Người ta tự hỏi: Sau nhiều năm chiến tranh anh em tương tàn, người dân VN có cần thiết một sự hòa hợp hòa giải dân tôc̣?.

Biến cố 20-07-1954 đã chia đôi đất nước bằng một lằn ranh ý thức hệ làm hai nửa đối chọi nhau. Những tư tưởng xoay quanh ý thức hệ ấy chỉ là vay mượn! Được chính quyền hai phía áp dụng triệt để, nhưng đối với người dân hai miền lại rất thờ ơ, họ chỉ đau lòng vì sự chia cắt đất nước.
Biến cố 30-04-1975, dòng sông Bến Hải được nối liền, mẹ con, vợ chồng, anh em gặp lại nhau trong tình nghĩa ruột thịt sau nhiều năm bị phân chia trong ranh giới thù nghịch. Chẳng có một tư tưởng, chủ thuyết nào định cắt chia tình người mà tồn tại, như thế, tình dân tộc có cần hòa hợp không? Sự hồ hợp chỉ là “thừa” trong cái “sẵn có” của tính dân tộc. Vậy cụm từ hòa hợp nếu cần phải thực hiện thì đảng cần hơn? Nhưng đảng hòa hợp với ai, với đối tượng nào? Nhân dân chăng? Nhắc đến đảng, nhân dân chỉ biết rùng mình và làm thinh chứ không dám hé môi ta thán hay nói xấu đảng vì hãi sợ guồng máy bạo lực của đảng trả thù. Đảng duy trì một chế độ toàn trị để cướp đi sự tự do, tiếng nói chân chính của người dân để dễ cai trị. Bước chân của người CS tiến đến đâu chỉ có loài kỳ nhông biết đổi màu là tồn tại! Kinh nghiệm cho họ thấy cứ nín thở qua sông hay going ép gật đầu trước mọi việc, cứ nhất trí thế là được yên thân. Sống trong chế độ CS biết hèn mới sống và biết câm mới tránh khỏi bị tù đày! Họ đành phải làm ngơ

trước những bất công đè lên cổ dù đã bao lần cố vùng vẫy nhưng chưa thoát được chiếc thòng lọng gian ác chuyên chính của đảng, nên đành cắn răng nhẫn nhục làm một thứ công cụ hờ cho đảng. Họ vẫn hy vọng với sức ép kinh tế của những nước tư bản hiện nay nền kinh tế thị trường nửa vời của VN sẽ phải mở cửa dân chủ, điều đó sẽ giúp người dân có cơ hội vùng lên lật đổ bạo quyền để đòi lại tự do dân chủ mà đảng đã tước đoạt. Do đó, giữa nhân dân và đảng luôn có sự chống đối ngầm và ắt sẽ có ngày sự xung đột bùng nổ. “Nhân dân là nạn nhân, còn đảng là thủ phạm, thì giữa nạn nhân và thủ phạm, có bao giờ hòa hợp? Vả lại đảng chỉ xem nhân dân là công cụ thì sự hòa hợp nếu xảy ra sẽ tước đoạt đi quyền lực cần phải có của đảng để tồn tại”.

Nhà cầm quyền Hà Nội đã tung nghị quyết 36 một chiêu thức hòa hợp hòa giải trá hình để dụ những nhân vật cũ của VNCH có dụng ý dùng số người này làm nấc thang cho đảng bước để tranh thủ tiếng thơm tự do dân chủ với thế giới, trong đó có một số ít người thuộc lãnh vực chính trị, văn hóa, tôn giáo, tuổi đã cao nhưng còn háo danh muốn trước khi lìa trần vẫn lóe sáng như ánh sao băng! Đảng chú ý nhất là thành phần cơ hội vì dễ tung hỏa mù thích hợp với nhu cầu dân chủ hiện nay. Đảng cần người đối kháng cuội để đánh bóng tính dân chủ nhằm che đậy việc không chấp nhận đa nguyên. Những người hợp tác phải đứng dưới cờ đảng, nghĩa là do đảng quản lý đặt để như một thứ công cụ. Những bọn con buôn quốc tế và bọn hoạt đầu chính trị vốn chỉ biết quyền lợi cá nhân  và phe nhóm; thì ý nghĩa Tự Do Dân Chủ chỉ là sự lừa dối để trao đổi mua bán tìm lợi nhuận! Những nhà trí thức, văn nghệ sĩ và tôn giáo trong nước mới chỉ lên tiếng, muốn nói tiếng nói của lương tâm đã bị bịt mồm và bắt cầm tù ngay thì làm gì có sự hòa hợp với người khác chính kiến?! Hiến pháp Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa VN quy định duy nhất chỉ có đảng CSVN là được quyền lãnh đạo nhân dân, những đảng phái khác đều không được phép hoạt động. Đối với những đảng phái quốc gia chân chính sẽ không bao giờ chịu sự hòa hợp với CS. Nói chuyện hòa hợp với CS là tự bắt cái bóng mình trả lời! Điều hợp lý nhất là đảng phải tự giải thể, lột xác CS, vứt bỏ để trở về với cội nguồn và cộng đồng dân tộc. Vấn đề được đặt ra là đảng có chịu giải thể không? Điều đó rất khó một khi mà đám lãnh đạo bảo thủ CS gìa nua thân Trung Cộng vẫn còn vây quanh nhà cầm uyền Hà Nội!
Sau 43 năm “giải phóng (!)” đất nước VN vẫn là một trong những nước nghèo đói nhất thế giới, xã hội tha hóa, đạo đức suy đồi! Tuy Việt Nam  hôm nay có nhiều thay đổi, dân trí khá hơn nhưng người dân chỉ lo cho cái bao tử, thờ ơ đến chính trị, vận nước, mặc dù họ vẫn biết đảng CSVN đã làm mất đất, mất lãnh hải về tay Trung Cộng nhưng vẫn làm ngơ trước bao nghịch cảnh thương tâm đang xảy ra hàng ngày trong xã hội: Con gái bị bán đi làm nô lệ tình dục, con trai bị ép đi làm lao nô. Ở thành phố, người nào khá giả một chút chỉ lo ăn chơi, thành phần trí thức đa số thụ động, cầu  an. Số người dấn thân thì quá  ít, có người nào đứng ra đòi hỏi đấu tranh thì bị trù dập, hoặc bị CS tung hỏa mù để người quốc gia ở hải ngoại nghi ngại là «phản tỉnh trá hình» đâm ra tranh cãi rồi tự phân hóa nhau!

Những năm gần đây phong trào đòi Tự do Dân chủ thế giới chuyển mình, VN được gia nhập Liên Hiệp Quốc, nhà cầm quyền VN buộc phải tuân theo những quy luật uốc tế, bộ mặt VN được tô vẽ lại, gọng kìm của đảng được nới lỏng để “làm trò” dân chủ. Sau nhiều năm kinh tế toàn cầu tăng trưởng mạnh, sự thịnh vượng của thế giới hiện nay đang bị đe dọa, kinh tế rơi vào cơn bão tài chánh! Sự khủng hoảng tiền tệ của những nước giàu như cơn lốc đã thổi sang VN, với nền kinh tế thị trường nửa vời VN sẽ bị xóay theo cơn lốc, giá sinh hoạt của thị trường sẽ đắt đỏ; mất sức quyến rũ! Nơi phồn hoa vật chất của giới tư bản đỏ bớt nhộn nhịp, nhố nhăng!
Sau bao biến cố, người dân Việt  hôm nay bừng tỉnh cơn đắm say vật chất khi nhận thức cái họa gần kề, những tài nguyên, đất đai, bờ biển đang bị xâm thực mất dần do mộng bá quyền của Trung Quốc. Người dân phẫn uất đảng, sinh viên xuống đường phản đối chính quyền. Thế hệ trẻ nhờ đã tiếp cận với thế giới bên ngòai bằng phương tiện internet nên đã mở mang trí tuệ, biết được cái hay cái đẹp của xứ người nên không còn sợ hãi trước bạo lực, họ can đảm dấn thân không sợ tù đày. Rất nhiều người đứng lên đấu tranh hôm nay đủ mọi thành phần từ trí thức, văn nghệ sĩ đến người công nhân, nông dân, họ đình công bãi thị, đòi nhà, đòi đất, đòi nhân quyền, tự do tôn giáo. Nhiều người trong số đó là phụ nữ, thanh niên,
          Xem tiếp trang  144
 
JONATHAN LONDON

Triển lãm CCRĐ năm 2015

Trong những ngày qua “Vụ án Triển lãm về cải cách ruộng đất bị đóng của vì vấn đề kỹ thuật” đã được nhiều người quan tâm đến và nhiều nhà bình luận, nhà blog đề cập. Từ góc độ xã hội học tôi thấy sự kiện này là rất thúù vị. Từ góc độ của một cá nhân, tôi lại thấy sự kiện này là rất đáng tiếc. Hình như ý mà nên có một triển lãm về CCRĐ là một ý rất tốt, một ý mà rất nhiều người có thể ủng hộ được. Vấn đề là ở chỗ nội dung. Vào 2014, không thế nào lại có thể có một triển lãm mà đầy ‘thông tin’ một chiều, thông tin mà không phân tích CCRĐ một cách khách quan, cởi mở, với tinh thần hòa giải. v.v.
Vậy, thay vì nhấn mạnh những vấn đề về mặt học thuyết (chẳng hạn bản chất chính trị của ký ức tập thể) hay suy ngẫm về những chuyện buồn tiếc (triển lãm được tổ chức vào một thời điểm mà nhũng vấn đềâ xoay quanh ruộng đất còn chưa được giải quyết), tôi xin đề xuất một đề nghị đơn giản như sau:
1. Hình thành một hoặc hai hội đồng đặc biệt về nghiên cứu CCRĐ, có sự tham gia của những thành phần xã hội thực sự đa dạng để đi vào việc đánh giá lại lịch sử và ý nghĩa của CCRĐ; Nếu cần, hãy hình thành hai hội đồng khác nhau, một gồm những tổ chức của nhà nước và một gồm những tổ chức xã hội dân sự.
2. Hãy tìm ra một cơ chế để bàn những kết quả nghiên cứu, có thể là một hội thảo về chủ để này nhằm mục địch nêu rõ những gì chúng ta biết và đồng ý và những chủ đề còn tranh cãi; Sẵn sàng tổ chức hội thảo này ở Hồng Kông; giả định nếu làm chuẩn sẽ chẳng có vấn đề tài chính nào (nhiều người sẽ ủng hộ chứ);
3. Hãy mời những người giỏi về bảo tàng học, nhân học, v.v. để dự những hội thảo này và thiết kế một triển lãm về CCRĐ, một triển lãm kiểu mới, có tính hòa giải, không áp đăït quan điểm nào nhưng lại tạo ra một cơ hội cho dân của đất nước để có những thảo luận cần có; Triển lãm có thể đề cập trực tiếp những tranh cãi mà chưa được giải quyết và sự liên quan đương đại của chủ đề.
‘Vấn đề kỹ thuật’ của Việt Nam ngày nay chính là chưa dám hay chưa phát hiện ra những cách thảo luận về ngày xưa. Một nước văn minh là một nước không sợ nói về lịch sử một cách cởi mở. Rõ ràng Việt Nam còn rất nhiều chuyện lịch sử nên thảo luận. Muốn một xã hội văn minh thì hãy dám lấy triển lãm về CCRĐ năm 2014 làm một cơ hội. Nếu làm thế thì Triển Lãm CCRĐ năm 2015 sẽ là một bước có tầm quan trọng lịch sử và có thể là một mô hình cho nhiều thảo luận tiếp theo. Ảo tưởng? Hy vọng là không.

Jonathan London

http://xinloiong.jonathanlondon.net/2014/09/15/trien-lam-ccrd-nam-2015/?utm_source=rss&utm_medium=rss&utm_campaign=trien-lam-ccrd-nam

LÊ KHẢ SỸ

Triển Lãm Cải Cách Ruộng Đất 1946-1957, Có Ba Cái Ngu

Ngày 08-9-2014, Bảo tàng lịch sử quốc gia (Hà Nội) triển lãm cải cách ruộng đất 1946-1957, được 3 ngày thì phải đóng cửa, có ba cái ngu:
* Ngu thứ nhất:
Ngày 4-12-1953 Chủ tịch Quốc hội Hồ Chí Minh mới ký Luật Cải cách ruộng đất, mà ngành "Văn hóa" dở hơi lại bày trò triển lãm với cái tên Cải cách ruộng đất 1946-1957 ngay trên đất Thủ đô cho khách trong nước ngoài nước vào xem. Như thế là triển khai CCRĐ trước gần 8 năm rồi mới có Luật CCRĐ?!
* Ngu thứ hai (nhưng là cái nhu to nhất): Từ xưa, người ta nói miếng ngon nhớ mãi, điều thảm hại nhớ lâu! Mấy cái đứa bày trò triển lãm đã vô tình hoặc hữu ý chọc vào vết thương CCRĐ của dân tộc, mà như hình ảnh dưới đây đã minh chứng: Cụ Hồ khóc trước hội nghị TW kiểm điểm về sai lầm trong CCRĐ.
Ở đời, làm không sai đã quý, làm sai mà biết sửa cho đúng lại càng quý hơn! Việc sai lầm trong CCRĐ đã được sửa, can chi mà lôi ra để bêu rếu cái sự dĩ vãng đã 6 thập niên? Rồi còn biện bạch như Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng lịch sử quốc gia trả lời BBC: Chúng tôi không coi đó là một vết thương mà coi đó là bài học xương máu trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng dân chủ. Bên cạnh đó chúng ta sử dụng tư liệu của Đảng, Bác Hồ khi sửa sai. Chứ chúng tôi không coi đó là một vấn đề chính trong trưng bày để xoáy sâu vào mất mát hay tổn thất gì. Cái đó Đảng ta đánh giá rồi.
Xin hỏi Giám đốc Bảo tàng lịch sử quốc gia Nguyễn văn Cường: Ông đã không coi đó là một vết thương thì sao lại coi đó là bài học xương máu trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng dân chủ? Như thế, những chủ trương kế sách dù đúng đắn thì sau đó vẫn cần lôi ra để làm “bài học xương máu” à? Ông học trường nào? Ai là thầy dạy ông? Ông không hiểu gì về lô-gich trong văn chương, cái sơ đẳng đối với con người có học và làm viên chức công quyền như ông?! Ông nói chúng tôi không coi đó là một vấn đề chính trong trưng bày để xoáy sâu vào mất mát hay tổn thất gì. Cái đó Đảng ta đánh giá rồi. Đã biết Đảng ta đánh giá rồi thì mục đích các người triển lãm nêu lên để đánh giá lại hay sao?
Các người không xoáy sâu vào vết thương lòng của dân tộc trong CCRĐ để buộc tội cho lịch sử thì với ý đồ gì? Hay cái chế độ này thu của dân quá nhiều để nuôi bộ máy gián tiếp con cha cháu ông quá cồng kềnh, quá khổ, vô công rỗi nghề nhàn cư vi bất thiện, sinh lẩm cẩm dở hơi như cái Bảo tàng lịch sử quốc gia này? Nếu để ông tự xếp hạng cho mình thì ông liệt vào hàng ngu hay dốt? Và, các “nhà” cùng a dua với ngành “văn hóa” trả lời phỏng vấn của báo chí, có đáng xếp vào hàng “theo đóm ăn tàn, ăn theo nói leo” không?
* Ngu thứ ba:
Cải cách ruộng đất rồi sửa sai, cả thành công và sai lầm không nhỏ, các người triển lãm mới thể hiện một chiều. Là cái đinh gỉ gì những điếu bát, ấm trà, áo dài hoa... của địa chủ, sao các người không đưa hình ảnh, tang vật địa chủ dùng đàn áp nông dân? Không dám đưa hình ảnh bắn địa chủ kháng chiến Nguyễn Thị Năm, bắn các đảng viên 30-31, con đấu tố cha mẹ... cùng với những hình ảnh cảm động như cụ Hồ khóc vì sai lầm CCRĐ, những người bị quy oan nhưng sau đó tự nguyện tham gia đi sửa sai...? Việc làm của các người chứng tỏ nếu không đến nỗi thiếu hiểu biết thì vừa xỏ lá lại vừa “già dái non hột” (!) Các người nên đến xem để học tập bảo tàng Dân tộc học, họ triển lãm đã qua mấy năm mà không có ý kiến phản đối, chê trách !
Cuối cùng xin nói thật: Ngành Văn hóa-thể thao-du lịch có quá nhiều cán bộ nhân viên gián tiếp thì liên hệ với hội Nông dân Việt Nam mở rộng lòng thương, nhận bớt cho về nông thôn làm ruộng hoặc chăn nuôi, đánh giậm, hơn là nuôi những con người như thế chỉ làm tổn hại đến thanh danh đất nước, gây thêm rối rắm giữa mối bòng bong !
    
Lê Khả Sỹ/ 13-9-2014

***

SONG NHỊ

Tháng Tư Bảy Lăm

Tháng tư tan tác mảnh đời
Hồn xiêu phách lạc rã rời thế gian
Đất trời phủ một màu tang
Nước non lật ngược sang trang sử buồn
Em nhàu tuổi mộng sắc hương
Ta neo thân giữa pháp trường quỷ ma
Máu loang thắm khắp sơn hà
Muôn dân trăm họ khóc òa
oán than!
tháng tư 2018

***
SONG LINH

Tháng Tư Đen

Tháng Tư sao lệch hai vai
Miếng cơm manh áo mệt nhoài thịt da
Tháng Tư tình nhận không ra
Ta đi đào huyệt chôn ta
chôn tình

Song Linh

**

CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
Bách Khoa Toàn Thư - http://wikipedia.org/
Bản dịch: Song Nhị

Cải cách ruộng đất ở Việt Nam là một chương trình Cải cách ruộng đất ở miền Bắc từ năm 1953 đến 1956, rập khuôn theo chương trình Cải cách ruộng đất ở Trung quốc từ năm 1946 đến 1953.
Mục đích của chương trình cải cách ruộng đất là để phá vỡ sức mạnh của các tầng lớp lành nghề truyền thống, để tạo thành một giai cấp lãnh đạo mới, và phân phối lại của cải (chủ yếu là ruộng đất) để tạo ra một giai cấp mới không có quyền sở hữu. Đó là một yếu tố của cuộc cách mạng cộng sản. Cuộc cải cách dẫn đến những cáo buộc nhiều người dân làng bị hành quyết, ruộng đất bị tịch thu, thậm chí với cả những người nông dân nghèo, và những người láng giềng kiêu ngạo hoang tưởng. Một số nhân chứng nước ngoài làm chứng cho những vụ  hành quyết hàng loạt. [1] [2] Một số nguồn tin cho rằng khoảng 30% "địa chủ" bị hành quyết là những đảng viên đảng cộng sản [3] [4] [5] [6] [7. ]
Cựu quan chức chính phủ Bắc Việt, ông Nguyễn Minh Cần nói với bộ phận Việt ngữ của đài RFA rằng: "Cuộc cải cách ruộng đất là một cuộc tàn sát những người hiền lương, vô tội, và nếu sử dụng thuật ngữ hiện đại, thì chúng ta phải nói rằng đó là một cuộc diệt chủng gây ra bởi sự phân biệt giai cấp" [8]. Từ 8.000 đến 172.000 người bị xem là "kẻ thù giai cấp" đã bị hành quyết. [9]   Gareth Porter trong bài viết “Chuyện Hoang Đường Của Cuộc Tắm Máu”, cho rằng số người chết chỉ là con số hàng ngàn [13] nhưng luận điểm đó đã bị nhà sử học Robert F. Turner chỉ trích khi ông cho rằng công bố đó (của ông Porter chỉ dựa trên những nguồn tài liệu chính thức của cộng sản. Turner cho rằng số người chết "là chắc chắn trong trong hàng sáu chữ số". [14] Tuy nhiên, ít nhất một nhà sử học, Edwin Moise, đã bảo vệ luận cứ này, ông khẳng định rằng các tờ báo chính thức của cộng sản Bắc Việt là "rất giá trị về thông tin" và "thể hiện một mức độ cao của tínhï trung thực "khi so sánh với những thông tin của các nhà nước cộng sản khác”. [15] Cựu giới chức chính phủ Bắc Việt Hoàng Văn Chí cũng trả lời Porter, rằng: "Ông Porter nghiên cứu .... một vài tập tài liệu tuyên truyền do Hà Nội xuất bản.... “Tôi đã sống qua toàn bộ quá trình ấy, và tôi đã mô tả những gì tôi đã nhìn thấy tận mắt". Cả hai ông Hoàng Văn Chí và Turner đều lưu ý rằng Porter chỉ có thể nói tiếng Việt (mặc dù tuyên bố của ông cho rằng các nguồn tài liệu về cải cách ruộng đất đã dịch sai), và rằng đôi khi ông ta dựa vào bản dịch tiếng Anh không chính xác của báo Nhân Dân, thực hiện bởi bộ phận Phát thanh Thông tin quốc ngoại. (cũng là phương tiện tuyên  truyền bằng tiếng Anh để khuyến khích các nhóm chống chiến tranh). [16] [14] 
Moise phủ nhận Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng trong cải cách, nên không còn được chấp nhận học bổng mới. [17] Gần đây học bổng từ Việt Nam cũng cho thấy rằng một số lượng lớn các địa chủ đã bị ngược đãi nhiều hơn so với suy nghĩ trước đây. [12]
Báo cáo từ những người đào thoát khỏi miền Bắc vào thời điểm đó cho rằng 50.000 đã bị hành quyết. Một nhà ngoại giao Hungary cho biết, 60.000 đã bị giết [18] Tài liệu giải mật của Bộ Chính trị xác nhận rằng 1 trong 1.000 người ở Bắc Việt (tức là khoảng 14.000 người) là chỉ tiêu tối thiểu mục tiêu để xử tử trong thời gian của chiến dịch "giảm tô" trước đó; Số người bị giết trong nhiều giai đoạn triệt để của cuộc "cải cách ruộng đất" có thể lớn hơn nhiều lần. [19]
 Ông Lâm Thanh Liêm, một giới chức thẩm quyền về ruộng đất  tại Việt Nam, thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn, trong đó các cán bộ cộng sản đã đưa ra những ước tính về những mức độ hành quyết trong cải cách ruộng đất là từ 120.000 đến 200.000 vụ. Con số đó phù hợp với "gần 150.000 ngôi nhà lớn nhỏ đã được phân bổ cho người cư ngụ mới". [20]
Thành phần Địa Chủ đã đã bị tùy tiện phân loại là 5,68% dân số, nhưng phần lớn đã bị xử nhẹ hơn mức án tử hình.
Hồ sơ chính thức kể từ khi đưa ra con số 172.008 "địa chủ " đã bị hành quyết trong "cải cách ruộng đất", trong đó có 123.266 (71.66%) sau đó đã được xác nhận là do phân loại sai [12] Nạn nhân đã được báo cáo là bị bắn, bị chặt đầu, và bị đánh đến chết;. "Một số bị trói, bị ném vào một huyệt mộ và bị ném đá cho đến khi họ tươm xác đến chết". [21]
Tổng số người chết tính đủ thậm chí còn lớn hơn nhiều bởi vì gia đình nạn nhân bị chết đói dưới chính sách "cô lập". [22]
Người cộng sản đào thoát Lê Xuân Giao giải thích: "Không có gì tồi tệ hơn là nạn đói của trẻ em trong một gia đình có cha mẹ bị đặt dưới sự kiểm soát của một đội cải cách ruộng đất.  Họ bị cô lập nhà, và những người sống ở đó sẽ chết đói. tất cả trẻ em đều là những đứa vô tội. Không có gì tồi tệ hơn thế. Họ muốn nhìn thấy toàn bộ gia đình phải chết ". [14] Hoàng Văn Chí cho rằng có khoảng 500.000 người miền Bắc Việt Nam có thể đã chết vì hệ quả của cải cách ruộng đất. [23]
Hơn 1 triệu người Bắc người Việt Nam bỏ trốn vào Nam, một phần do các cuộc cải cách ruộng đất. [24] Người ta ước tính rằng có đến hơn hai triệu người sẽ ra đi nếu họ không bị Việt Minh ngăn chặn lại. [25]
http://en.wikipedia.org/wiki/Class_enemies
[Bản dịch của Song Nhị ]

Bản Anh ngữ:
Land reform in Vietnam
[From Wikipedia, the free encyclopedia].
Land reform in Vietnam was a program of land reform in North Vietnam from 1953 to 1956. It followed the program of
land reform in China from 1946 to 1953.

Thơ TIỂU MUỘI

  Đơn

Người đàn ơng đơn độc
Cơ đơn buồn một mình
Trong căn nhà xưa cũ
Khơng hơi ấm người thân

Người đàn ơng bĩ gối
Lặng lẽ nhìn đêm thâu
Trong nhá nhem sáng tối
Mặt trời đi về đâu

Người đàn ơng nhỏ bé
Mỉm cười với tay mình
Trên cánh tay gầy guộc
Vết thương đời điêu linh

Người đàn ơng ngồi đấy
Trên cánh võng đong đưa
Ngóng người mà không thấy
Một mình trong ngày mưa

Người đàn ông chẳng biết
Ngày mai mình ra sao
Đôi khi bâng quơ hỏi
Biển rộng với trời cao!

The aim of the land reform program was to break the power of the traditional village elite, to form a new class of leaders, and redistribute the wealth (mostly land) to create a new class that has no ownership. It was an element of the Communist revolution. The reform led to allegations of many villagers being executed, land being taken away even from poor peasants, and of paranoia among neighbors. Several foreign witnesses testified to mass executions. [1][2] A number of sources have suggested that about 30% of the "landlords" executed were actually communist party members. [3][4][5][6][7] Former North Vietnamese government official Nguyen Minh Can, told RFA’s Vietnamese service: "The land reform was a massacre of innocent, honest people, and using contemporary terms we must say that it was a genocide triggered by class discrimination".[8]
Between 8,000 and 172,000 perceived "class-enemies" were executed. [9][10][11][12] Gareth Porter wrote The Myth of the Bloodbath, claiming that the death toll was only in the thousands [13] but was criticized by historian Robert F. Turner for relying on official communist sources. Turner argued that the death toll "was certainly in six digits." [14] Nevertheless, at least one historian, Edwin Moise, has defended this practice; asserting that the official communist newspapers of North Vietnam were "extremely informative" and "showed a fairly high level of honesty" when compared to those of other communist states. [15] Former North Vietnamese government official Hoang Van Chi also responded to Porter, stating that "Mr.
Porter studies....a few propaganda booklets published by Hanoi.... I lived
           Xem tiếp trang   159

***

CHU LYNH - VIETNAM FILM CLUB PHỎNG VẤN NHÀ VĂN SONG NHỊ Về CCRĐ
[CHU LYNH Chủ nhiệm Viet Nam Film Club Thực hiện]

- Chu Lynh: Thưa Anh, tôi vừa đọc xong phần Cải Cách Ruộng Đất từ cuốn sách của anh. Xúc động, nhiều chi tiết cụ thể rất cần cho cuốn phim. Xin đề nghị một số câu hỏi, để được anh đóng góp cho bộ phim tài liệu.  Gia đình anh bị đấu tố gồm những ai? Bị gán ghép vào những tọâi gì?

- Song Nhị.- Mục đích của CCRĐ là tiêu diệt các thành phần trí địa phú hào (trí thức, địa chủ, phú nông, thân hào nhân sĩ). Đối tượng để triệt hạ là chủ gia đình, là người chồng hay người vợï. Trong trường hợp người chồng bị ốm bệnh, tàn tật thì người vợ là đối tượng bị đấu tố.
Trường hợp gia đình tôi, bố tôi sau khi bị bắt đi “quản huấn” 3 tháng được thả về, ông nằm liệt giường nên mẹ tôi bị bắt giam và đưa ra đấu tố. Tội trạng, theo đúng chủ trương của CCRĐ gán cho thành phần địa chủ, bố mẹ tôi bị đấu tố: “Vợ chồng mày làm chủ ruộng đất, không lao động sản xuất, ăn không ngồi rồi, phát canh thu tô, chỉ tay năm ngón, ức hiếp, bóc lột nông dân...”.
Bản thân tôi năm đó mới là học sinh Trung học nhưng cũng bị đem ra đấu tố trong một đêm về tội “phá hoại đoàn thể, xuyên tạc chính sách của đảng và nhà nước, không chấp hành điều lệ và sinh hoạt của đoàn thanh thiếu niên...”, mặc dầu lúc đó tôi đang là trưởng ban văn nghệ ca múa và huynh trưởng phụ trách đội thiếu nhi. Tôi bị cấm đến trường học, không được đi ra khỏi địa phương.

- Chu Lynh: Xin anh thuật lại một buổi đấu tố mà anh chứng kiến.
- SN: Hầu như các cuộc đấu tố đều diễn ra cùng một cách thức như nhau. Người nào sau khi bị quy vào thành phần địa chủ là liền bị bắt. Thường là họ bị trói và giữ tại nhà một bần cố nông do đội cải cách chỉ định và du kích, công an canh giữ. Trong nhiều tháng họ bị đưa ra trong các buổi họp gọi là đấu lưng” để hạch hỏi, tố cáo tội trạng, khủng bố tinh thần và tra khảo của cải mà họ nghi là còn cất giấu. Ngày mà một địa chủ bị đưa ra “đấu pháp” là  một màn đấu tố công khai, kết thúc số mệnh cá nhân và gia đình người địa chủ đó với một “Tòa Án Nhân Dân Đặc Biệt” (TA.NDĐB).
Buổi đấu tố cuối cùng được chuẩn bị từ nhiều ngày trước, dân chúng bị bắt buộc phải đến tham dự, thường diễn ra từ ba đến bốn tiếng đồng hồ. Sau các màn đấu tố là bản án do TA.NDĐB tuyên bố và các bản án tử hình luôn luôn được thi thành tại chỗ.
Tôi từng chứng kiến ba, bốn buổi đấu tố và các phiên tòa xử địa chủ. Nếu kể ra hết sẽ mất rất nhiều thì giờ. Tôi xin tóm tắt vài điển hình mà tôi đích thân chứng kiến.
- Lần thứ nhất là cuộc đấu tố địa chủ Võ Tá Tân ở xã Thượng Bình, diễn ra vào một buổi tối trên bãi trống một ngọn đồi hoang. Đêm tối không có đèn dầu hay đèn điện mà chỉ có những bó đuốc, ánh sáng lập lòe. Nạn nhân bị dẫn ra trói vào một cọc tre, trước bàn chủ tọa gồm chánh án và các “bồi thẩm” TA.NDĐB. Một số bần cố nông đã được chỉ định trước, lên chỉ tay vào mặt nạn nhân kể đủ thứ tội được đội cải cách bắt học thuộc lòng trước. Thỉnh thoảng lại có những tiếng hô “Đả đảo địa chủ gian ác!”, bắt nhịp cho người tham dự hô theo. Sau những màn đấu tố, chánh án TA.NDĐB đọc bản cáo trạng và tuyên án tử hình, tịch thu toàn bộ tài sản. Nạn nhân được mở trói và kéo tới trói vào một cọc tre cách đó vài chục mét, gần đó một lỗ huyệt đã được đào sẵn từ chiều. Mấy phát súng xé màn đêm, phá vỡ sự im lặng của đám đông. Mấy tiếng hô “đả đảo địa chủ gian ác” rời rạc... Đó là phiên tòa đầu tiên và người địa chủ đầu tiên bị hành quyết nên “may mắn” còn có được một cỗ quan tài thô sơ.
- Một địa chủ khác bị đưa ra đấu tố tại sân trường tiểu học vào một buổi chiều ở thời gian cao điểm của cuộc CCRĐ.

- Chu Lynh: Tính chất dã man của CSVN trong CCRĐ nằm ở những khía cạnh nào?
- SN:  Theo tôi, tính chất dã man trong việc thực hành CCRĐ thể hiện ở chỗ họ đã biến con người mất hết nhân tính, nhẫn tâm, vô cảm trước nỗi thống khổ, đau thương của đồng loại, mà nạn nhân là đồng bào, cùng chung làng, chung xóm, từng quen biết qua lại với nhau.
 - Thông thường, khi một người bị thiên tai, hoạn nạn thì láng giềng, chòm xóm ra tay cứu độ, an ủi, giúp đỡ, nhưng ở đây chính những người láng giềng, chòm xóm lại giáng những đòn tai họa xuống những người gần cận với mình để đạt mục đích cướp của giết người. 
- Tính dã man còn thể hiện ở tính hành hạ tinh thần, làm đau đớn hơn những vết chém vào da thịt khi người ta ướm mớm, cổ vũ, đốc thúc con cái đấu tố cha mẹ, gọi cha mẹ bằng mày và xưng tao; anh em ruột thịt, họ hàng tố láo, cáo gian nhắm vào anh chị em, bà con cùng huyết thống chỉ vì nghe theo lời hứa hẹn, dụ dỗ, răn đe của Đội Cải Cách.
- Cộng Sản cũng đã biến cải những người nông dân bình thường chất phác, một sớm một chiều trở thành những đao phủ thủ giết người không gớm tay. Trong những vụ xử tử địa chủ, sau khi nạn nhân bị bắn, đám bần cố nông cốt cán xúm lại mở giây trói, kéo lê xác chết, hè nhau vứt xuống hố, tay chân, quần áo họ đính đầy máu   và họ lấy làm hả hê như đã lập được một “kỳ công”!
Ngoài ra, những người tham dự chứng kiến cảnh giết người rùng rợn ấy thay vì mủi lòng thương cảm thì họ phải hô “đả đảo địa chủ” theo tiếng hô được một cán bộ xướng lên...

- Chu Lynh: Sau CCRĐ, thảm cảnh nông thôn miền Bắc như thế nào?
- SN: Qua thực trạng mà tôi chứng kiến và trải nghiệm tại  vùng quê tôi và qua tài liệu tôi đọc được thì tình trạng nông thôn miền Bắc nói chung cùng một thảm cảnh như nhau. Tất cả các mặt Xã hội, Kinh tế, Luân lý Đạo đức, Văn hóa... đều suy thoái một cách thảm hại, trong đó Văn hóa và Luân lý đạo đức bị phá sản, xói mòn từ nền tảng.
- Về mặt xã hội, ngoại trừ một số bần cố nông cốt cán, phần đông người dân thôn quê khép mình tuân thủ mọi chủ trương của Đội Cải cách để được yên thân, nhưng trong thời gian phát động, thi hành CCRĐ và sau khi hoàn thành phong trào, chia quả thực, rồi sửa sai, họ hoang mang giao động, khi nào cũng sống trong lo sợ, sa sút tinh thần. Tôn ti trật tự có từ nghìn xưa hoàn toàn bị đảo lộn. Mọi giềng mối liên hệ giữa người với người sụp đổ. Mọi người sống xa lánh, nghi kỵ và thậm chí thù ghét lẫn nhau. Những người già cả không còn được gọi là Cụ, là ông, bà như trước. Một đứa trẻ sáu, bảy tuổi gọi một người lớn là mày, là nó một cách tự nhiên. Cha mẹ không dám nói bất cứ điều gì công khai, vì sợ con cái đi méc với cán bộ, với đoàn thể. Anh em, họ hàng không còn tin nhau, trừ một số ít hiểu biết tìm cách liên lạc chuyện trò kín đáo.
- Về mặt Kinh tế, không lâu sau khi kết thúc CCRĐ, tịch thu tài sản địa chủ và chia “Quả thực”, liền sau đó có chỉ thị thành lập Hợp Tác Xã Nông nghiệp. Toàn bộ ruộng đất trâu bò của địa chủ và các loại công điền, công thổ chia về cho các Đội Sản Xuất, điều động các xã viên canh tác theo chủ trương “Làm chung hưởng riêng”.
Sau mỗi vụ mùa, lúa thu hoạch về chứa trong những kho lúa đồ sộ, kiên cố, tường cao cổng kín của hợp tác xã (HTX) do một thủ kho đảm trách quản lý. Số lúa thu hoạch sau khi tính trừ các khoản quỹ và thuế nông nghiệp, số còn lại chia cho mỗi xã viên, được trả 300gram thóc cho mỗi ngày công. Chỉ sau vài vụ mùa nông dân bắt đầu lâm vào cảnh thiếu thốn đói khổ. Họ chán nản thất vọng, bỏ HTX kiếm kế khác sinh nhai, vào rừng chặt tre, nứa về bán... Trâu bò tịch thu của địa chủ giao cho HTX ngày càng gầy nhom, bệnh tật, sau một hai mùa đông là ngã quỵ, xã viên làm thịt chia nhau ăn. Các loại dụng cụ sản xuất dần dà thất thoát, tiêu hao... HTX âm thầm phá sản. Toàn xã hội chỉ còn một giai cấp vô sản, nghèo tận mạng.
- Về mặt Văn hóa, và Luân lý Đạo đức, qua chủ trương thi hành trong cuộc CCRĐ - nói theo từ ngữ của cộng sản là giai đoạn quá độ trong chính sách nhằm phá vỡ toàn bộ truyền thống văn hóa và đạo lý Việt Nam.
Trước CCRĐ, vào những năm 1950 - 51 chính sách hợp tự là bước đầu nhằm triệt hạ các cơ sở tôn giáo bằng cách “rước” đồ thờ tự từ các đình chùa, đền miếu đến tập trung thờ ở một ngôi đền nào đó. Những đền bị “hợp tự” chính quyền cho tháo dỡ, đất bỏ hoang. Một vài nơi nhà nước trưng dụng làm trụ sở Ủy Ban Hành chánh, đến thời kỳ CCRĐ dùng làm đấu trường, “hành tội” địa chủ. Vấn đề tín ngưỡng mặc nhiên cấm kỵ đối với lớp người có tuổi và hoàn toàn xa lạ với lớp trẻ ở nông thôn, ngoại trừ giáo dân Thiên Chúa giáo vẫn lặng lẽ đến nhà thờ cầu nguyện.
Với chủ trương xúi giục, cổ vũ con đấu cha, vợ tố chồng, nền tảng đạo lý kỷ cương gia đình nghiêng ngửa, suy đồi.
Những chuẩn mực luân lý, đạo đức từ nghìn xưa truyền lại như: Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”, “Thương người như thể thương thân”; Hay “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”; “Bầu ơi thương lấy bí cùng..; “Thấy người hoạn nạn thì thong..” v.v.. Tất cả bị xóa bỏ để biến con người trong xã hội mới thành những kẻ lừa đảo, gian dối, chụp giựt, chai lì, bất nhẫn trước mọi khổ đau, bất hạnh của tha nhân. Tình trạng đó hiện nay không còn ở trong phạm vi nông thôn mà đang phổ biến khắp cả nước từ thành đến tỉnh, ở mọi lớp người. Và chủ trương của người Cộng sản nhằm làm thui chột, tê liệt và băng hoại đời sống tinh thần trong sáng của người dân đã bước qua thời kỳ quá độ.

*Song Nhị/ 30 tháng Tư 2011

***

HÀ VIỆT TĨNH

Hồi Ức Của Một Nhân Chứng Và Nạn Nhân Trong CCRĐ

Thời kỳ CCRĐ tôi ở tuổi 15, 16, lứa tuổi còn “vô tư” nhưng đã đủ hiểu biết để ghi nhận mọi chuyện xẩy ra xung quanh trong xóm làng. Năm 1954 khi có hiệp định đình chiến, mọi người dân quê tôi chỉ biết mơ hồ là “không còn sợ máy bay Pháp ném bom nữa”. Một không khí âm ỉ như làn khói bùng lên dành cho CCRĐ, một năm sau không khí đó sục sôi mà ngột ngạt, mọi người như câm nín dưới sức nặng đè nén của những “ông đội” và đám bần cố nông đang được tẩy não để bơm vào ý thức căm thù giai cấp với đủ thứ tội ác tưởng tượng do “ông đội” soạn thành bài học thuộc lòng cho cuộc đấu tố những người mà trước đó không bao lâu họ còn nhờ vả nương cậy trong tình chòm xóm.
Bố tôi năm 18 tuổi là bí thư chi bộ (cs) xã, một năm sau đó bỏ đảng khi

chứng kiến những màn khủng bố cướp của giết người do lệnh từ trên ban truyền xuống. Sau cách mạng tháng Tám, e ngại bị trả thùø, ông gia nhập Liên Việt (Việt Minh) làm tới chủ tịch Liên Việt Xã, ủy viên Liên Việt huyện. Năm 1953 khi biết tin bà Nguyễn thị Năm bị xử tử, tôi thấy bố tôi thường ngày thầm thì với mẹ tôi (vì không dám cho con cái biết, sợ bị lộ chuyện, và có khi sợ con cái đi báo cáo với nông dân). Sau đó (tôi không khớ thời gian bao lâu) bố tôi đang làm việc tại Ủy ban xã thì bị gọi ra trường tiểu học Thượng Bình
cùng với bốn người khác, bắt ra đứng sắp hàng giữa sân, người cầm đầu toán du kích mang súng trường tuyên bố : “các anh là những người có tội với nhân dân. Từ nay các anh không được đi ra khỏi địa phương....”. Sau đó họ giữ lại một người là ông Võ Tá Tân, còn 4 người khác cho về quản thúc tại gia.
Không lâu sau đó ông Võ Tá Tân bị đem ra xử bắn. Đêm xử bắn họ tập họp dân trong làng và bắt buộc tất cả gia đình bị quy địa chủ ra ngồi trên một ngọn đồi, nơi lập “Tòa án nhân dân đặc biệt” với chánh án Lê Minh là một thanh niên đi chăn bò, chưa bao giờ đến trường, mù chữ.
Một cọc tre đã đóng sẵn từ chiều, có một cái hòm ọp ẹp để bên cạnh. Khi chánh án đọc “bản cáo trạng” mấy câu thuộc lòng và tuyên bố tử hình, nạn nhân bị bốn du kích mang súng dài xốc tới kéo thốc trói vào cọc tre. Người em ruột nạn nhân là ông Võ Tá Thiều la lên một tiếng “Trời Ơ!!” tiếng than la dội lên trong đêm khuya trên ngọn đồi hoang, một không khí nặng nề ngột ngạt, không có tiếng vỗ tay nào. Ông Thiều bị bắt dẫn đi ngay lập tức. Nạn nhân bị bắn sau khi bị trói dựng lên cọc tre xong. Mấy tiếng súng lạc lõng giữa đêm khuya
Tôi đi với người bạn học từ bậc tiểu học. Anh ta tên là Tùng, con một bần cố nông, tôi đi theo để được Tùng che chở. Không ai để ý đến sự hiện diện của tôi, con một địa chủ đã bị quy thành phần. 
Mấy tháng sau bố tôi giả vờ bị điên loạn, hằng ngày, mỗi buổi sáng ông dùng một cái đòn gánh, một đầu đòn gánh buộc một cục gạch, một đầu buộc một cái mõ lấy ở chùa đi lang thang trong xóm, vừa đi vừa đọc ê a những câu kinh Phật. Một hai tháng sau ông nói với mẹ tôi “điên nó cũng bắn” và sắp đặt giả vờ ốm bệnh nằm liệt giường suốt một năm trước ngày bị đưa ra đấu tố.  Ngày “đấu lưng” (đấu thí điểm trước ở trong xóm) bố tôi bị khiêng lên đấu trường nhưng không thể dựng một người ốm liệt giường lên để đấu tố nên cho con cái khiêng về nhà, và mẹ tôi biï bắt trói treo lên cây bưởi cạnh sân trước nhà một bần cố nông tên là Hòa Đèo để khảo của. Khi thấy mẹ tôi bị tím bầm họ cắt giây cho rớt xuống rồi bắt đi giam ba ngày đêm ở nhà một bần cố nông, trước khi bị đem ra đấu trường lần thứ hai.
Ngày bị đấu tố mẹ tôi bị bắt quỳ trên hai tảng đá ong chồâng lên nhau.
Chỉ có vài ba bần cố nông được sắp đặt trước nhảy xổ lên đấu tố mẹ tôi.

Thấy không có ai “sốt sắng” lên đấu, họ xúi Chị Thoan người giúp việc cho bà nội tôi lên đấu, chị Thoan bước lại mấy bước nhìn mẹ tôi rồi quay lui, lẩn vào đám đông. Họ lại đẩy chị dâu tôi lên, bảo “chị làm dâu nhà nó nhiều năm rồi, chị biết nó độc ác chị lên đấu tố nó đi! Chị dâu tôi cũng bước vài bước rồi quay lui. Sau ba đêm đấu tố mẹ tôi bị giam giữ thêm hai ngày đêm nữa mới cho về mái nhà tranh ọp ẹp.
Mẹ tôi “đóng vai Lê lai” để cứu bố tôi.
Bố tôi đã thủ sẵn một gói thuốc độc trong người, sẵn sàng để tự tử nếu bị bắt khiêng đem vào tù. Bố tôi nhất định “một ngày vào tù cộng sản cũng không”.
Đang nằm chờ số phận thì một đêm khuya người anh họ tôi, gọi bố tôi là chú (đang trốn trong rừng từ gần một năm qua vì bị quy tộâi “phản động”) tìm đến đưa bố tôi cùng vượt thoát thành công sang Lào.
Sau CCRĐ, nhà cửa tài sản bị tịch thu, chúng tôi được cho đến ở một gian nhà tranh lụp xụp dột nát, không đủ tấm che mưa gió. Và sau khi bố tôi vượt thoát, chúng tôi bị truy hỏi và khốâng chế từng ngày. Nhưng sáu tháng sau, tháng 1-1957, bố tôi cho người từ Lào về trong đêm khuya đem cả gia đình tôi vào rừng, vượt Trường Sơn trốn sang Lào.
Cuộc đời bỗng chốc hoàn toàn thay đổi từ cõi chết sang chốn an bình, tự do, no ấm, tương lai rực rỡ đón chờ.
Tháng 4-1960 tôi bay từ Paksé về Sài Gòn tiếp tục con đường học vấn. Cuối năm, bố mẹ, gia đình tôi cùng về Sài Gòn - Miền Nam Tự Do - một cuộc đổi đời ngoạn mục Tổ tiên, Trời đất ban cho để có ngày hôm nay...
* Hoa Kỳ, 6/2018

No comments:

Post a Comment