THƠ CHỌN LỌC






















THƠ Hùng Vĩnh Phước

Xa Xót Tháng Tư

Mặt trời trốn sau chân núi
Tôi trốn nỗi buồn sau câu thơ
Xa xót trốn sau tháng tư
Con số bốn mươi hững hờ dễ ghét!

Thời gian trôi qua không thèm biết
Tang thương phủ dày quê hương
Khi không, làm người bỏ cuộc
Từng nhát cô đơn chém xuống hồn mình.

Tháng tư lắng lòng tưởng niệm
Mùi hương thời cũ thơm đưa...
Mong sao lần này lần cuối
Tháng tư xa xót đủ rồi!


Hùng Vĩnh Phước

Lảo Đảo Tháng Ba 

Tháng ba một mình chạy trên đồi ký ức
không gió không mây không một sắc màu
cứ chạy mãi những vòng vô vọng
như kiếm tìm mà chẳng biết kiếm tìm chi

Mọi thứ đi qua, ngày tháng đi qua
giật mình thấy tháng ba lảo đảo
Ban Mê Thuột mất đi từ dạo nảo dạo nào
khi người-anh-em-làm-giặc quay về gây khổ

Tôi từ buổi sáng ấy ra đi
xuôi ngược mãi vẫn không quay về được
tháng ba rồi tháng tư
ôi những tháng làm buồn đau đất nước
có đứa bạn đi tù
có đứa bon chen đội nón cối dép râu
cố nhuộm hoài mà vẫn ló tim đen
dù có khoác trăm nghìn màu chói đỏ!

Bốn mươi năm trôi qua
chưa làm được điều gì như mơ ước
trôi dạt dật dờ, bỏ xứ vô nam, rồi giã từ đất nước
hôm nay quay lại nhìn
thì đã hết tháng ba
tôi đã đi xa, xa nước xa nhà
xa tất cả chỉ gần kề đau xót
những dối trá điêu ngoa làm cuộc đời tan nát
mà thời gian cứ vô tình cứa cứa trái tim tôi.

Hùng Vĩnh Phước

** NGUYỄN BẮC SƠN

Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi

Lòng đá cạn phơi một bầy đá cuội
Rừng giáp rừng gió thổi, cỏ lông măng
Đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
Dừng quân đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy tựa gốc cây, hãy ngắm mây trời
Hãy tưởng tượng mình đang đi picnic
Kẻ thù ta ơi, các ngài du kích
Hãy tránh ra xa đừng chơi bắn nheo
Hãy tránh ra xa ta xin xí điều
Lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc
Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh
Kẻ thù ta ơi những đứa xâm mình
Ăn muối đá và điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Cuộc chiến này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm gì cho lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vịSONG NHỊ

Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Chọn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu
Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc
Mượn bom đạn chơi trò pháo Tết
Và máu xương làm phân bón rừng hoang./

Nguyễn Bắc Sơn
















Bài Thơ Viết
Trước Cổng Trướng Vạn Hạnh

Tặng Các Bạn một thời trong khuôn viên trường cũ.

Tôi trở về thăm lại trường xưa
Khuôn viên cũ đã thay lề đổi thói
Câu Duy Tuệ (*) xoáy lòng người nhức nhối
Từng nỗi buồn thấm lạnh từng cơn

Tôi trở về văng vẳng nỉ non
Ngọn tháp rưng rưng giữa chiều cuối hạ
Rên rỉ oán hờn
Quằn quại hồn Chiêm quốc

Mười năm núi lở đá mòn
Mười năm hồn người nhập viên đá cuội
Chìm lặng giữa dòng sông
Từng đợt sóng ngược dòng cuồn cuộn
Kéo tan hoang một cõi cơ đồ

Tôi trở về thăm lại trường xưa
Trong thác nguồn của thời Vọng Nghiệp
Cuốn đời theo thiên tai
Ngỡ ngàng hư thực
Mở cửa chân như: Lệ thấm Phật đài !

Tôi trở về thăm lại người xưa
Người xưa xuống núi
Tôi lục lọi từ hư vô
Tìm sắc hoàng y một thời rạng rỡ
Người năm xưa tán lạc mơ hồ
Ôm kinh điển trá hình vào cõi tục
Đám sinh đồ nhìn theo lơ ngơ
Gẫm từng trang Thị Nghiệp (*)

Tôi trở về thăm lại trường xưa
Cổ tháp rêu phong giữa đời gió bụi
Bầy chim nhỏ ẩn mình sau mái ngói
Kinh sách cuộn mình phủ bụi nằm mơ

Tôi trở về thăm lại trường xưa
Hồn mê mải góc giảng đường thư viện
Một thuở lòng say mê 
Một thuở đời rộn rã ...

Mười năm tơi tả tôi về
Chập chờn ác mộng
Thiện ác chân giả lập lờ
Một cõi trần ai nhốn nháo
Bặt tiếng kinh cầu
Trời đất hoang sơ./

Song Nhị/ Sài Gòn 1985

(*) Duy Tuệ /Thị Nhgiệp là châm ngôn trên logo Đại Học Vạn Hạnh















TRẦN VẤN LỆ

Đà lạt Ban Mê Một Nỗi Niềm

Đàlạt, nhiều khi tôi nhớ quá
Buồn chân leo miết một đồi thông
Thông đây, ba lá như Đàlạt
Cũng mướt xanh và.. cũng nhớ nhung!

Ba lá thông xanh một thuở nào
Tôi còn trai trẻ mắt xanh xao
Cả rừng thông ẩn trong đôi mắt
Mỗi tiếng thông reo một ngọt ngào

Tôi nói ở đâu? Trong lớp học
Ngoài kia cửa sổ một rừng thông
Rừng thông ba lá, em chơi đó
Trang vở nằm phơi bên cánh song...

Em vào lớp trễ, tôi không phạt
Em lại buồn so, nghĩ cũng kỳ!
Hồi đó, tôi không tha thiết dạy
Biết mình sắp lính, đợi ngày đi...

Hồi đó em hay nhặt lá thông
Tách ra ba lá, nói... chia lòng:
Một em cho bố, hai cho mẹ
Còn một em dành cho biển sông

Em nói kề vai bên chị bạn
Tôi nghe mà mỉm nụ cười thôi
Chao ôi, ba lá đem chia vậỵ
Mai mốt tôi đi lạc cuối trời

Mai mốt... không ngờ tin tới sớm
Lệnh trình diện gấp và tôi xa.
Rừng thông Đàlạt làm sao nhỉ?
Tôi Thủ Đức nhìn mây trắng qua...

Mây qua đồi cỏ Tăng Nhơn Phú
Mây tụ thành mưa Cát Lái kìa
Màu trắng của mưa, màu trắng
Áo, học trò, nhớ lắm, gọi trong mê...

Chín tháng quân trường, tôi vuốt mặt
Giã từ hào rãnh vuốt tê tay
Cầm tờ quân lệnh đi lên núi
Ngơ ngác Ban Mê nhớ mãi ngày...

Ngày đó, rừng thông tôi để xuống
Ba lô và cái nón bê rê
Tôi đi tìm nhặt thông ba lá
Thương nhớ trường xưa, biết khó về...

Chiếc lá thông chia mấy ngả buồn
Chia lòng tôi tới tận tha hương...
Em ơi, Đàlạt, em khôn lớn
Chắc cũng hết rồi chuyện nhớ thương?

Sáng nay tôi bước trong rừng lạ
Mà rất quen vì giẫm lá thông
Thông Mỹ, cầm chia ba lá rẽ
Hướng nào quay ngược một con sông?

Hướng nào em ở trên đầu dốc
Ngó xuống trường xưa nghĩ ngợi gì
Phòng học mở hay là khép cửa
Từ khi Thầy bỏ đó Thầy đi...                         

= Trần Vấn Lệ

  
NGÂN GIANG

Trưng Nữ Vương

Thù hận đôi lần chau khóe hạnh
Một trời loáng thoáng bóng sao rơi
Dồn sương vó ngựa xa non thẳm
Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi

Ngang dọc non sông đường kiếm mã
Huy hoàng cung điện nếp cân đai
Bốn phương gió bãi lùa chân ngựa
Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai

Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ
Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai
Hồn người chín suối cười an ủi
Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi

Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận
Non Hồng quét sạch bụi trần ai
Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời...

***
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi...

1939



    














Phan Thị Ngôn Ng

Bài thơ “Tuổi Thơ Con là Chỗ Ngoại Nằm” là một trong những “tuyệt tác” của Ngôn Ngữ. Mỗi dòng thơ là mỗi hàng kỷ vật cổ kính lộng lẫy chưng bày trong ngôi nhà thừa tự của các danh gia thế phiệt ngày xưa. Những lọ sơn, thỏi mực tàu, những giấy điều giấy bổi, những nghiên mực, những ngọn bút lông… những câu thơ Lục Vân Tiên, những câu Kiều lẩy; những thơ Lý Bạch, Thôi Hạo, Đỗ Phủ thời Thịnh Đường, với giọng ngâm nga dìu dặt của ông ngoại cho đến ngõ trúc vườn cau đã thấm vào tâm hồn nhà thơ suốt thời thơ ấu:

TUỔI THƠ CON LÀ CHỖ NGOẠI NẰM

Từ khi rời quê ra phố chợ
Có đôi lần con trở về thăm
Tuổi thơ con là chỗ ngoại nằm
Chiếc chõng tre kê đầu hiên vắng

Chiếc võng gai mấy mùa mưa nắng
Mỗi trưa ngồi – con nhổ tóc sâu
Trong tiếng gù gù của lũ chim câu
Ngoại dắt con qua từng trang Kiều lẩy.

Câu Lục Vân Tiên như mái dầm mái đẩy
Giọng ngoại chèo lúc nhặt lúc khoan
Để hồn con là cánh vụ quay tròn,
Rồi ngủ rụng trên vai còm của ngoại.

Bên bộ ván đã bao đời chìm nổi
Nhng lọ sơn – những thỏi mực tàu
Những tờ giấy điều, giấy bổi vàng thau
Cũng úa ố theo tuổi già của ngoại

Vết mực loang đọng trong lòng nghiên tối,
Ngọn bút tà nên cũng chẳng buồn chăm
Tuổi thơ con là chỗ ngoại nằm
Có thời Xuân Thu đi về qua trang sách

Có thủa Thịnh Đường vang vang trên vách
Dốc bầu thơ Lý Bạch ngửa nghiêng sầu
Trong con – ngoại  là ngõ trúc ngọn cau
Là bóng hạc trên mái đình rêu phủ

Là chiếc nôi êm ru hồn con ngủ
Giữa vòng tay quê không bến không bờ…

Phan Thi Ngôn Ngữ

(Trích thi phẩm Vọng Khúc của PTNN)


No comments:

Post a Comment