Đỗ Bình
Đi vòng xuống lưng chừng đồi là cảnh giới riêng của khu họa sĩ, họ đang thả hồn theo những mảng sắc màu. Phố Paris gồm nhiều con đường dọc ngang uốn khúc chằng chịt, xe cộ tấp nập, khách qua lại đông nghịt dọc theo vỉa hè. Hai bên đường san sát những nhà hàng cửa hiệu quán cà phê rạp cinê được trang hoàng đầy ánh đèn màu rực rỡ.
Tôi xin ghi lại “một chút thoáng qua” như giữ cho mình chút
kỷ niệm về: Người Paris và Viễn Khách, trong đó có các bạn văn nghệ phương xa
đã có lần ghé thăm.
Đã lâu lắm, từ những thế kỷ trước trong số những người Việt
có những người là nghệ sĩ họ đã đến Paris trình
diễn hoặc thăm Paris
nhưng rất thầm lặng, thời gian vô tình trôi xóa dần những dấu cũ mà đâu đó vẫn
còn vương đọng! Xin kể lại các bạn một số những câu chuyện đẹp về những tâm hồn
nghệ sĩ mà tôi may mắn gặp gỡ quen biết sau này, hoặc đã quen cũ nay tình cờ
gặp lại ở nơi đất khách quê người. Những điều viết ở đây không nhằm mục đích
ghi lại từng chân dung và sự nghiệp của mỗi nghệ sĩ nên không thể diễn đạt hết
những tính ưu việt của mỗi nghệ sĩ một cách đầy đủ về tài năng, tính chất, nghệ
thuật… vv... Đây chỉ là những mẫu chuyện vui dọc đường của một số người làm văn
nghệ được đời gọi là nghệ sĩ.
Tôi có cái thú hay vào thư viện đọc sách, nhưng nay nhờ có
internet nên cũng bớt đi, thỉnh thoảng cùng bằng hữu đi xem những cuộc triển
lãm tranh của một số danh họa Pháp. Những điều bắt gặp trong tranh làm tôi say
mê từ màu sắc, phong cảnh đến những đường nét chấm phá. Tính hiếu kỳ khiến tôi
lại muốn tìm hiểu hơn về những con người trong thế giới sắc màu này nên đã liên
tưởng đến những người bạn nghệ sĩ, có người là họa sĩ, có người văn sĩ, nhạc sĩ
mà tôi đã từng gặp trong đời. Hôm nay ngồi hồi tưởng quá khứ, khơi lại vùng ký
ức để tìm những dấu vết thời gian, những khuôn mặt văn nghệ sĩ mà tâm hồn còn
đầy bí ẩn! Cũng phải mất nhiều năm, nhưng chắc gì tôi đã hiểu và nhớ hết! Rất
may tôi lại không có tham vọng đó, công việc này dành cho các nhà nghiên cứu,
nhà biên khảo về văn học nghệ thuật. Tôi chỉ làm một việc góp nhặt kỷ niệm kết
thành bản Tình Nghệ Sĩ để thấy lại khoảng mộng năm xưa cho năm tháng hoàng hôn
đỡ cô quạnh. Tôi thường nghĩ: “Một tác phẩm ở bất cứ một thể loại nào dù là văn
học hay nghệ thuật giá trị đích thực không hẳn ở lời khen tiếng chê; mà tùy
thuộc vào tác phẩm có thực đi vào lòng người hay không, tuy nhiên người đời
thường lẫn lộn gữa tác phẩm và nhân cách tác giả! Người nghệ sĩ và tác phẩm là
hai thực thể tách rời nhau nhưng lại khắn khít có chung một niềm bất hạnh chứa
đầy rủi ro, đôi khi bị vùi dập vì ngộ nhận! Tâm hồn nghệ sĩ rất phóng khoáng,
bao dung yêu tha nhân, yêu thiên nhiên và yêu cuộc đời; dẫu cho cuộc đời có
muôn cay đắng. Trong cõi vô tận của nghệ thuật, con người và thiên nhiên là tác
phẩm của thượng đế mà nghệ sĩ lại sáng tạo cho cuộcđời thêm muôn sắc.”
CON ĐƯỜNG VĂN NGHỆ
Trước năm 1975 ở Sài Gòn tôi quen một số văn nghệ sĩ chỉ
nhìn cách sống và sự đam mê nghệ thuật thì tôi đã bội phục, mỗi người mỗi khác,
kẻ viết văn, làm thơ, người soạn nhạc, trong số đó có người đã in ấn được tác
phẩm, có kẻ thì không. Có người viết nhiều ca khúc nhưng chẳng chạy theo thị
trường nên chỉ loé lên rồi tắt lịm, hoặc chẳng ai biết! Và có người tranh bán
được nhiều nhưng chưa một lần triển lãm! Con đường văn học nghệ thuật mênh mông
vô tận, người nghệ sĩ tự mình tìm con đường riêng để đi, và họ đã gặp nhau ở
chốn Chân Thiện Mỹ, từ đó mọi sự vật trong cõi đời mới có tên. Sau biến cố năm
1975 người Việt ồ ạt bỏ nước ra đi tị nạn CS, những người đến Pháp đã đồng loạt
thành lập hàng trăm hội đoàn nhằm mục đích cứu quê hương thoát khỏi ách CS.
Chúng tôi là những người tị nạn đến Paris sau và cũng đã
thành lập hội Văn Hóa năm 1985 theo luật 1901do chính phủ Pháp quy định, sau
chúng tôi thu hẹp lại thành Câu Lạc Bộ để đáp ứng với nhu cầu sinh hoạt văn học
nghệ thuật với mục đích bảo tồn và phát huy văn hóa VN ở hải ngoại, đồng thời
thành lập một tủ sách để đáp ứng nhu cầu tinh thần cho cộng đồng. Số lượng
người đọc sách ngày càng nhiều do đó chúng tôi đã phát triển cơ sở thành thư
viện Cergy, hiện nay trở thành thư viện quốc gia Pháp với đủ thể loại sách gồm
sách Việt, Pháp và nhiều sách nước ngoài, chúng tôi đã trao lại cho tòa thị
chính quản lý.
Năm 1986 hội Văn Hóa đã tham dự ngày quốc tế văn hóa
Symbiose nhằm giới thiệu văn hóa dân tộc VN với các dân tộc khác sống trên xứ
Pháp, sau đó một thành viên của hội là nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đăng Trình được mời
làm khách danh dự triển lãm tại Đại Hội Nhiếp ảnh Vương Quốc Bỉ ở Charleroi.
Năm 1987 vào triển lãm 2 tháng liền trong Musée Francais de
la Photographie, Bièvres, do Association Culture Vietnam
chủ tịch là Giáo sư Phạm Mậu Quân đỡ đầu, với chủ đề: Khung Trời Việt Nam . Đây là một
vinh dự cho những nhà nhiếp ảnh được trình bày tác phẩm của mình, những người
được trúng tuyển đều là những nhà nhiếp ảnh quốc tế, và do quốc gia giới thiệu.
Luật sư Nguyễn Đăng Trình là một nhà nhiếp ảnh đam mê, từng
đoạt giải nhì quốc tế UNESCO, và nhiều giải nhất về nhiếp ảnh cở trung tại
Pháp. Khi rời khỏi VN ông mang theo được một số âm bản chụp nhiều cảnh VN trước
và sau năm 1975, qua Pháp ông làm ảnh bằng kỹ thuật mới trong phòng tối và
phóng lớn.
Chúng tôi được viện bảo tàng nhận là vì lúc đó VN hoàn toàn
bị cắt đứt với thế giới bên ngoài, những hình ảnh Nguyễn Đăng Trình mang theo là
một không gian VN thu hẹp, nhờ đó đã mở cánh cửa cho chúng tôi đem hình vào
viện triển lãm. 1988 chúng tôi được mời
sang tận Museum
Volkenkude Rotterdam
và Museum Groningen Hoà Lan triển lãm 4 tháng liền. Hiện nay Nguyễn Đăng Trình
đang định cư ở Montréal , Canada vẫn bấm máy nhưng không còn
triển lãm. Dù định cư ở Canada nhưng thỉnh thoáng nhiếp ảnh gia Nguyễn Đăng
Trình vẫn sang Âu Châu và ghé Paris thăm tôi, anh đến bất chợt không hẹn trước
có khi vào nửa đêm, có lúc gần sáng từ các nước nước Đức, Bỉ, Hòa Lan, anh lái
xe đến mời chúng tôi đi ăn.
Có lần anh đến nhằm lúc chúng tôi được mời nói chuyện Thơ
Nhạc ở Paris, lần đó Chủ nhật ngày 02-06-2013, tại nhà thờ Saint Hippolyte, nằm
trên đại lộ Choisy, Paris quận 13. Một buổi sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật chủ
đề: "Chiều Thơ Nhạc Paris" đã được Chi Hội Phụ Nữ Âu Cơ Paris tổ
chức. Xin trích một đoạn của Nguyễn Mây Thu đăng trên tạp chí Cỏ Thơm:
“Khai mạc là nghi lễ chào quốc kỳ và một phút mặc niệm. Hội
trưởng Chi Hội Phụ Nữ Âu Cơ Paris, chị Trần Thúy Phượng cũng là MC ngỏ lời chào
quan khách, nói qua về ý nghĩa buổi sinh hoạt chiều nay. Mở đầu diễn giả, nhà
thơ Đỗ Bình sẽ nói chuyện về đề tài Thơ và Nhạc. MC cũng giới thiệu những khách
tham dự gồm những khuôn mặt nổi tiếng ở Paris .
Đặc biệt có khách ở xa về tham dự là Nhiếp ảnh gia Nguyễn Đăng Trình, ông là
một khuôn mặt nổi tiếng một thời ở Paris
và Âu Châu đã từng đoạt nhiều giải thưởng Âu Châu và Quốc Tế, gần cuối chương
trình ông được mời lên phát biểu.
Nguyễn Đăng Trình: “Chúng tôi ở cách đây xa một đại dương
hơn mười ngàn cây số, hôm nay được sinh hoạt lại với không khí đầy tình thân ái
trong tinh thần văn nghệ sống động. Thật là một duyên may cho chúng tôi, được
thấy lại, được sống lại một khoảng thời gian trước kia khi chúng tôi cùng với
nhóm anh Đỗ Bình đã triển lãm ở Musée Français de la Photographie, ở Rotterdam , ở Charleroi
bên Bruxelles... Tôi xin cảm ơn Chi Hội Phụ Nữ Âu CơParis đã tạo cơ hội cho
chúng tôi được sống lại không khí sống động như ngày hôm nay mà ở Montréal
chúng tôi không có được như vậy”.
Vào mùa hè năm 2014 tôi được lời mời của anh chị Nguyễn
Đăng Trình và một nhóm bạn ở Montréal, tôi định qua Canada thăm các anh chị
Nguyẽn Đăng Trình, anh chị nhạc sĩ Lê Dinh, anh chị nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương,
anh chị nhạc sĩ Trường Sa và anh chị BS Phan Văn Thành nhà văn Tiểu Thu.
Ra tới phi trường Charles De Gaulle tôi bị huyết áp tăng
quá cao nên không thể đi được, chiếc vé vẫn còn gía trị đến hè năm nay, nhưng
anh Nguyễn Đăng Trình vừa bỏ cõi đời ra đi! Hai tuần lễ trước ngày anh Nguyễn
Đăng Trình mất tôi còn phôn nói chuyện nhau, anh cho biết sức khỏe rất kém vừa
ở nhà thương về không biết có thể sống được không!
Anh cho biết đang viết dở trên ordinateur về chuyện cuốn
bản thảo 5000 câu Lục Bát của Nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật vì anh và Nguyễn Hữu Nhật
đã quen với nhau từ lúc còn trẻ, anh đang dạy học ở Đà Lạt, Nguyễn Hữu Nhật
thuở đó đã làm thơ nhưng sở trường là vẽ bắt nguồn từ năng khiếu bẩm sinh, có
khoa tay nên nét chữ đẹp như rồng bay phượng múa. Vào thập niên 60 của thế kỷ
trước Nguyễn Hữu Nhật theo học thêm lớp hội họa ở trường Mỹ thuật để có kiến
thức căn bản và tự mày mò trong khoảng không gian sắc màu để tìm lối riêng cho
mình. Nguyễn Hữu Nhật dùng chất liệu sơn dầu để tạo hình, nhưng không theo một
trường phái nào, đôi khi thể hiện màu sắc qua tranh cắt dán.
Trước năm 1975 họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật đã làm được vài cuộc
triển lãm ở Hội Việt Mỹ Sài Gòn, Trung Tâm Văn Hóa Pháp Sài Gòn. Ra hải ngoại
chúng tôi đã tổ chức triển lãm tranh của anh ở Trung Tâm Văn Hóa Quốc Tế Paris
năm 2001. Đó là lần cuối cùng anh triển lãm tranh có tầm vóc lớn. Ở Paris tôi
có giới thiệu với anh những danh họa trong đó có Họa sĩ René Loesh đã cao tuổi,
sống ẩn dật làm bạn với những tác phẩm vẽ sơn dầu bằng dao, ông là bạn của Nữ
danh họa quốc tế người Mỹ Bà Edna Hibel vẽ sơn dầu bằng bút.
Nguyễn Hữu Nhật cùng chúng tôi vào xem tranh của René, anh
đã ngả nón nghiêng mình ngưỡng mộ tác phẩm làm tôi và nhà văn Nguyễn Thùy cảm
thấy hân hoan vì những tâm hồn đồng điệu họ đã gặp nhau. Tiếp theo tôi đưa
Nguyễn Hữu Nhật đến giới thiệu với Nữ danh họa Michikok người Nhật, có một
phòng tranh lộng lẫy trong khu bảo tàng danh họa Van Gogh, ông bà Họa sĩ này
rất ân cần và có chụp nhiều hình lưu niệm với Nguyễn Hữu Nhật.
Vào một chiều thu năm 2004, chúng tôi gồm: Họa sĩ Thái
Tuấn, họa sĩ Lê Tài Điển, họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật từ Na Uy, nhà văn Nguyễn Thùy
từ Thụy Sĩ, nhạc sĩ Trịnh Hưng, và Đỗ Bình, kéo nhau vào quán cà phê trên lầu
khu Á Châu ngồi nói chuyện văn nghệ.
Nhạc sĩ Trịnh Hưng (tác gỉa những nhạc phẩm vang bóng một
thời: Tôi Yêu, Lối Về Xóm Nhỏ, Tình Thắm Duyên Quê…) thì kể chuyện vừa về VN
thăm lại những bạn cũ: như nhà thơ Hữu Loan, nhà thơ Hoàng Cầm, gia đình nhà
thơ Quang Dũng và một số nhạc sĩ trong đó có Hoàng Giác… vv... Nhạc sĩ Trịnh
Hưng nói: “Tôi về Hà Nội hỏi thăm Hữu Loan chẳng ai biết cả! Tôi vào cả viện âm
nhạc Hà Nội hỏi cũng chẳng ai biết! Mãi về sau hỏi trong giới xe ôm mới có
người biết và chỉ đường xuống Thanh Hóa.”
Nguyễn Hữu Nhật hỏi: “Sao anh không tìm những người bạn
nhạc sĩ của anh ngày trước mà hỏi?” Trịnh Hưng: Hơn 50 năm chưa về Hà Nội bạn
bè cũ tan tác cả; biết các ông ấy ở đâu mà tìm! Tôi có thăm chị Văn Cao và nhờ
chị hỏi thăm những nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, Tô Vũ, may ra gặp các anh ấy thì sẽ
rõ.” Trịnh Hưng lại nói tiếp: “Lúc ở Sài Gòn tôi có đến thăm anh Ưng Lang, Y
Vũ, Tô Hải, nghe anh Ưng Lang nói cũng sắp sửa sang định cư bên Mỹ. Còn Y Vũ
vẫn sáng tác và sống bằng nghề chơi nhạc như xưa, dạo này đời sống nghệ sĩ bên
ấy có khá hơn lúc sau năm 75. Y Vũ biết tôi ngày xưa là bạn của Y Vân nên chú
ấy rất qúy tôi.”
Chuyển đề tài sang hội họa, tôi hỏi họa sĩ Lê tài Điển:
“Tại sao anh chọn phái trừu tượng?” Lê Tài Điển đặt tách cà phê xuống bàn, chậm
rãi nói: “Ngay từ đầu thập niên 60 khi còn theo học ngành hội họa ở Huế, sau đó
sang Paris tiếp
tục học; Moi đã chọn trường phái tranh trừu tượng, đó là một cách đối kháng
ngầm với lối Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa ở ngoài Bắc.”
Nguyễn Hữu Nhật: “Cho đến bây giờ ở VIệt Nam vẫn chưa
dám phát triển trường phái trừu tượng!”
Họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật quay sang hỏi họa sĩ Thái Tuấn: “Anh
nghĩ sao về lối vẽ tranh trên vi tính hiện nay?”
Họa sĩ Thái Tuấn: “Thật là tuyệt! Vẽ trên vi tính vừa mới
về kỹ thuật vừa diễn tả được ý tưởng qua hình sắc để đạt tới cái tuyệt vời của
nghệ thuật trong hội họa.”
Tôi góp ý: “Thế giới của nghệ thuật là vô tận, mỗi nghệ sĩ
tạo ra một thế giới của riêng mình. Thế giới của anh Thái Tuấn là thế giới phụ
nữ.”
Họa sĩ Thái Tuấn cười và nói: “Trong hội họa có trường phái
Ấn Tượng, Hậu Ấn Ttượng, tôi đố các cậu sau Siêu Thực là cái gì ? Có Hậu Siêu
Thực không?”
Bị một câu hỏi bất ngờ mọi người cứ ngẩn ra!
Nguyễn Thùy: “Tôi xin phép các anh để trả lời câu hỏi của
anh Thái Tuấn: “Nếu có “Hậu Hiện Thực” thì chắc phải là 'Siêu Siêu Hiện Thực!
Đã là “Siêu” rồi thì chắc không thể có cái “Siêu Siêu”. Tôn giáo quan niệm
Thượng Đế là đấng Siêu Thực, đấng hoàn toàn tượng trưng', không thể có môt đấng
nào “Hậu Thượng Đế”, “Siêu Thượng Đế”. Không một họa sĩ nào vẽ được hình Thượng
Đế, không một Điêu khắc gia nào tạc được tượng Thượng Đế. Tôi cũng không gặp
những từ “Tân Siêu Thực” (néosuréalisme) hay “Tân Tượng Trưng” (néosymbolisme).
Vậy, nếu có “Hậu Siêu Thực, Hậu Tượng Trưng” thì chỉ là một cái “Không” (le
Vide, le Néant, le Rien) thôi, lý trí không thể hình dung ra sao.”
Vì trời đã xế chiều họa sĩ Thái Tuấn phải gĩa từ chúng tôi
ra về. Đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Tôi thích tranh Thái Tuấn từ
trước năm 1975, người họa sĩ sử dụng rất ít đường nét về chi tiết chân dung,
họa sĩ có biệt tài về cách dùng màu sắc, giản lược tài tình những gam màu tạo
những khoảng trống xanh vàng tím, để thành một thế giới riêng Thái Tuấn. Thời
gian sau ông về Sài Gòn sống với người con trai cả đến năm 2008, họa sĩ Thái
Tuấn đã giã từ màu sắc cõi đời để về miền vô tận tạo một không gian sắc màu
mới, và cùng thời gian đó, nhạc sĩ Trịnh Hưng cũng giã từ cõi đời để về miền
vĩnh cửu.
Vào năm 2012 tôi đang viết bài cho tập Bên Dòng Kỷ Niêm mà
mục đích đã nói ở phần trên, không thiên vị hay tâng bốc, và đứng bên ngoài
những suy tư, phán xét, tranh chấp của bằng hữu nên tôn trọng những khoảng
riêng của người được ghi trong sách, do đó tôi có phôn qua NaUy hỏi ý kiến anh
chị Nguyễn Hữu Nhật và Nhà văn Nguyễn Thị Vinh có nên đưa những đoạn đời mà
chúng tôi đã trải qua còn ghi lại qua băng nhựa, vidéo, hoặc thư từ?
Anh Nguyễn Hữu Nhật cho biết anh vừa trải qua cơn đột qụy
tai biến mạch máu não! Tôi dừng bài viết về anh chị từ đó, nhưng chúng tôi vẫn
thường xuyên liên lạc nhau đến ngày anh Nguyễn Hữu Nhật qua đời!
Chúng tôi nhóm văn nghệ sĩ ở Paris rất qúy tài năng của thi văn họa sĩ
Nguyễn Hữu Nhật và trân trọng những gì Nguyễn Hữu Nhật đóng góp chung cho Văn
Hóa. Cuốn Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca VN Hải Ngoại gồm những bài thơ đắc ý của
nhiều tác giả có chung một hoàn cảnh ly hương trong số các nhà thơ hải ngoại do
nhà văn Võ Đức Trung Là người chủ xướng thực hiện cùng chúng tôi. Cuốn thứ nhất
bài tựa được nhà văn Nguyễn Thùy viết, nhưng bài viết dài qúa 39 trang nên
Nguyễn Hữu Nhật đã dựa theo viết lại còn ít trang và đã được chọn đăng trong
tập một.
Nhà văn Võ Đức Trung: “Tác giả nhiều tập truyện, biên khảo.
Là một người khiêm tốn giữ được phẩm chất của một cựu giáo chức. Thời gian
chúng tôi chuẩn bị cho thi tập mất 2 năm, khi đua ra thảo luận tại nhà tôi lúc
đó gồm: Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh, nhà văn Nguyễn Hũu Nhật, nhà văn Võ Đức Trung và
tôi, trong thảo luận thì được biết cái Tựa sách này đã được các nhà thơ Diên
Nghị, Song Nhị, Duy Năng ở Cali đã chọn từ lâu và sắp in, họ muốn thực hiện một
tập văn học ghi dấu một giai đoạn đời 25 năm xa xứ. Sau đó tôi đã liên lạc với
các nhà thơ trên để giải thích sự việc của chúng tôi và đề nghị họ chọn một cái
tựa khác.
Khoảng hai tuần sau họ trả lời là đồng ý, và đã chọn cái
tựa khác cho tuyển tập là: Lưu Dân Thi Thoại - Bút Luận 25 Năm Thơ Hải Ngoại do
Cội Nguồn xuất bản. Nhà văn Võ Đức Trung phát biểu: “Nhận được phôn của anh Đỗ
Bình mời, tôi nghĩ là lên Paris
họp bạn văn nghệ như mọi khi, nhưng khi xem lại thư mời tôi thấy quan trọng quá
nên lấy làm ái ngại! Tôi ở tỉnh lẻ, thỉnh thoảng mới về Paris sinh hoạt sợ phát biểu sẽ trở ngại, hơn
nữa như anh Đỗ Bình và Hồ Trường An biết; tôi viết văn về đồng quê mộc mạc nếu
có gì sơ xuất mong các anh chị thứ lỗi cho. Tôi xin tâm tình tại sao tôi lại có
ý định thực hiện cuốn Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca Hải Ngoại. Kể từ sau biến cố
năm 1975 mọi người ồ ạt bỏ nước ra đi, dòng thi ca lúc đầu gần như tan tác, cho
đến đầu thập niên 80 thì khởi sắc vì số ít nhà thơ vượt thoát ra ngoài được đã
bắt đầu viết, hồn thơ còn nhiều tâm tư cảm xúc, nhưng đến cuối thập niên 80 thì
bắt đầu có chiều hướng đi xuống vì đa số phải hội nhập với cuộc sống mới! May
mắn thay là qua thập niên 90 có một số nhà thơ trong diện anh em H.O khi vừa
đặt chân đến nơi định cư họ đã cầm bút lại, dòng thi ca lại dâng cao qua những
bài thơ tố cáo sự đàn áp và nhà tù trong chế độ CS, chúng tôi muốn bảo tồn và
lưu trữ những sự kiện đó qua thi ca nhưng khi bắt tay vào thực hiện mới biết
muôn vàn khó khăn! Chúng tôi tiếp xúc 350 tác giả nhưng phải chọn lựa như thế
nào khi cuốn sách chuẩn bị in chỉ giới thiệu có 24 tác giả mà không kêu sự đóng
góp? Cuốn 1 đã phát hành vào tháng 2 vừa rồi, chúng tôi nhận được thư, điện
thư, và phôn đến chúc mừng và khích lệ, điều đó là một món quà tinh thần đối
với chúng tôi trong công việc bảo tồn văn hóa VN nơi xứ người.”…
Một số bài thơ anh Nguyễn Hữu Nhật đọc cho tôi nghe trong
lúc ở chung tù mà tôi còn nhớ, sau này ở hải ngoại tôi đã đọc lại cho anh nghe,
có bài được anh viết thêm và in thành thi tập, có bài chưa in. Nguyễn Hữu Nhật
có tài làm thơ, xuất khẩu thành thơ và thơ rất hay, anh đã xuất bản:
- Thơ Hoa Sen, thơ 1991
- Cỏ Bồng Thơ 1998
- Cuộc Chiến thơ 1998
- Bờ Bên Kia, 2 tập: tiểu thuyết thiền 2001
- Hoa Đào năm Ngoái, tiểu thuyết 2009
Và một tác phẩm mới đã đóng thùng, anh định qua Paris ra mắt thì bị ngã
bệnh. Nhà văn Trương Kim Anh cho tôi biết số sách đó đã được đóng thành từng
gói chưa có địa chỉ nên không biết số sách sẽ ra sao vì nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh
đã quá cao tuổi!
Nguyễn Hữu Nhật còn có cái thú thích ghi chép dù trên những
mẩu giấy nhỏ, hay những cuốn tạp ghi đều ngăn nắp đẹp đẽ. Trước năm 75 Nguyễn
Hữu Nhật có dáng cao dong dỏng, điển trai, nhưng nhiều năm tù đày đã tàn phá
con người của anh, nếu ngày xưa trên môi anh nụ cười rất tươi, nhất là giọng
Bắc thật truyền cảm, ấm áp, người nghe dễ cảm thì sau này cặp môi thâm xịt do
hậu quả thuốc lá và bệnh, thân người rút ngắn lại! Giọng nói ấm áp năm xưa thời
gian cũng làm khàn đi nhưng vẫn ngọt ngào tưởng như một hòn bi dễ lăn, nhưng
đụng vào rướm máu vì ẩn trong đó có gian truân, nước mắt và một sự sâu sắc thâm
trầm.
Những năm cuối đời Nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật thật sự buông
thả, anh chán ngán sự ganh đua nên sống ẩn dật như một chiếc bóng, anh quay
sang viết văn xuôi, biên khảo. Một công trình lớn của tác gỉa Nguyễn Hữu Nhật đó
là tập bản thảo 5000 câu Lục Bát Thơ Động Đình Hồ đã hoàn tất, nhà thơ đã tặng
cho người bạn là LS. Nguyễn Đăng Trình trước năm 1975, hiện tập thơ còn ở VN.
Anh Nguyễn Đăng Trình khi bỏ nước ra đi đã cất trong tủ
sách qúy gởi cho người cháu, không biết thời gian đã quá lâu liệu gia đình có
còn cất giữ tập bản thản thảo đó? Bài thơ Cô Đơn là bài thơ làm ngày cuối cùng
trong nhà thương, của Nguyễn Hữu Nhật do nhà văn Trương Kim Anh ái nữ của Nữ sĩ
Nguyễn Thị Vinh gởi đến tôi.
Nay hai người bạn của tôi là Nguyễn Đăng Trình và Nguyễn
Hữu Nhật đã bỏ cõi đời ra đi. Trên con đường nghệ thuật dù khác ngành nhưng lại
có chung một cái đẹp. Cả hai đều dùng ánh sáng và bóng tối làm nền cho tác phẩm
mình, trong đó có khoảng không màu mà cả hai giờ mới thật sự tìm thấy.
Đỗ Bình
CÔ ĐƠN
1-
Tôi mằm nhà thương một mình
Chẳng ai thăm viếng nghĩ tình đã xa
Cuối cùng mới nghĩ được ra
Mua cho mình một bó hoa đỡsầu
2-
Giường bên một lão Bắc Âu
Cô đơn nằm khóc, hồi lâu lại cười
Ngập ngừng nước mằt khó rơi
Hình như tiếc lắm cái thời thanh xuân
Nguyễn Hữu Nhật
This comment has been removed by the author.
ReplyDeleteMột số bài thơ anh Nguyễn Hữu Nhật đọc cho tôi nghe trong lúc ở chung tù mà tôi còn nhớ, sau này ở hải ngoại tôi đã đọc lại cho anh nghe, có bài được anh viết thêm và in thành thi tập, có bài chưa in. Nguyễn Hữu Nhật có tài làm thơ, xuất khẩu thành thơ và thơ rất hay, anh đã xuất bản:
ReplyDelete- Thơ Hoa Sen, thơ 1991
- Cỏ Bồng Thơ 1998
- Cuộc Chiến thơ 1998
- Bờ Bên Kia, 2 tập: tiểu thuyết thiền 2001
- Hoa Đào năm Ngoái, tiểu thuyết 2009
các tác phẩm này rất hay
click xem thêm Tại đây