Bài 1: THƠ
VẦN VÀ THƠ KHÔNG VẦN
(Đôi điều về bài viết của
ký giả Lâm Văn Sang trên tờ VTimes số 31)
SONG NHỊ
Ông Lâm văn Sang là
một ký giả được nhiều người tại San
Jose biết đến qua mục “Sổ Tay Cộng Đồng” trên tuần báo
Việt Mercury do ông Trần Đệ làm chủ nhiệm. Việt Mercury đình bản, Ông Trần Đệ
mới đây ra tờ VTimes đứng tên Chủ nhiệm, ông
Lâm Văn Sang Tổng Thư ký, giữ tiếp mục “Sổ tay cộng đồng” trên VTimes.
Do cách viết của một
cây bút có khi rất thẳng thắn, nên trước đây ông LVS từng gặp phản ứng của
nhiều độc giả và một vài nhóm khi họ không vừa lòng với bài báo. Cái chuyện
không vừa lòng này xẩy đến với Ông LVS nhiều lần, nhưng cũng là chuyện thường
tình đối với một nhà báo trước dư luân của số đông.
Bài viết của Ông LVS
mà tôi đề cập ở đây có tựa đề: “Màu xanh
trong thơ siêu thực Hải Phương”.
Tôi lấy làm ngạc
nhiên, buộc phải suy nghĩ và nói ra đây khi đọc đến đoạn ông LVS viết: “San
Jose từ lâu nay đã trở thành một xí nghiệp thơ, sản
xuất ra những vần điệu nghiêm chỉnh đóng thành tập”.
Thì ra dưới mắt
người ký giả này chỉ có loại thơ siêu thực, thơ không vần, thơ cách tân mới
đáng gọi là thơ. Vì vậy ông đã không tiếc lời, tiếc chữ ca tụng sự tâm đắc của
ông với loại thơ siêu thực như sau:
“Không phải mọi thứ được in ra đều là tuyệt phẩm”, ..Từ lâu
lắm tôi mới được đọc một tập thơ như CƠTGBBNEC của Hải Phương”.
Hẳn bạn đọc và những
người làm thơ, yêu thơ đã từng (hơn một lần) đọc một, hai, ba bài thơ siêu
thực, thơ cách tân, thơ dung tục và đã cảm nhận được “cái hay, cái đẹp” của nó
như thế nào so với loại thơ vần trong Truyện Kiều, trong Cung oán Ngâm khúc,
trong thơ của Vũ Hoàng Chương, của Xuân Diệu và những nhà thơ sau này như Duy Năng,
Tô Thùy Yên...
Lâu nay người ta đã
bàn luận nhiều đến Thơ Vần và thơ không vần, một đề tài đã “xưa như trái đất”,
nhưng xem ra vẫn luôn luôn mới, bởi bộ môn Thơ là một phần của đời sống tinh
thần trong sinh họat văn học nghệ thuật của nhân loại. Ở Pháp vào thời vua
Louis 14 đã có những thi đàn do các nhà quý tộc lập ra để giới trí thức lịch
duyệt, được nhà vua nể trọng họp nhau nghe thơ, bàn luận về thơ và để đánh giá
mà thừa nhận danh xưng thi sĩ cho những người xứng đáng. Ở Trung Hoa, vào thời
thịnh Đường, nhiều nhà thơ không chấp nhận những ràng buộc của Khổng giáo như
Đào Tiềm, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên... nhưng đã để lại hàng
ngàn bài thơ cho gia tài văn học Trung Quốc. Đó là loại thơ vần mà văn học Việt
Nam
coi như kế thừa đã mấy nghìn năm. Chúng ta không bao giờ chấp nhận sự “kế thừa”
này, vì vậy Thơ Đường đã bị trào lưu thơ Mới đẩy lùi vào bóng mờ của dĩ vãng.
Hoài Thanh đã gọi đó là “một cuộc cách mạng thi ca (đã nhóm dậy vào tháng 3
-1932) ”.
Văn học, thi ca cũng
như khoa học luôn luôn đòi hỏi con người đi tìm cái mới, cái hay, cái hoàn mỹ,
hoàn thiện hơn.
Người ta thấy sự
thay thế vị trí của thơ - từ cũ sang mới - sau thời kỳ Tự Lực Văn Đoàn cho đến
thời kỳ văn học miền Nam (1954-1975), nhưng dù là cũ hay mới thì thơ vẫn là thơ
vần, với đầy đủ tính nghiêm chỉnh của vần điệu, của nhạc tính, của thi tứ và
thi ngữ.
Thời kỳ thăng hoa
của thơ Việt có lẽ phải kể là vào thời kỳ này với Thi Văn Tao Đàn, với các giải
thơ toàn quốc. Ngay cả một số nhà thơ ở miền Bắc sau thời kỳ thơ mới như Hoàng
Cầm với Bên Kia sông Đuống, Hữu Loan với Màu Tím Hoa Sim, và các nhà thơ khác
trong Nhân Văn, Giai Phẩm đều là những nhà thơ mới, đều có làm những bài thơ
phá thể, thơ tự do nhưng nhạc tính và vần điệu vẫn rất hoàn chỉnh, vẫn có thể
đọc, có thể ngâm để mà cảm nhận, mà thưởng thức.
Cùng lúc với Thơ Mới
chiếm lĩnh vị trí trong thơ Việt, thơ mới “giành được quyền sống”; thơ cũ “mất
quyền sống” trong làng thơ, cũng là lúc có những người phỏng theo thơ Pháp làm
thơ tự do, thơ phá thể, thơ không vần, nhưng không phổ biến nhiều, không lớn
lên được, và không thể tồn tại. Mãi đến sau năm 1954, sau cuộc di cư của gần
một triệu người từ Bắc vào Nam, Thanh Tâm Tuyền là người chủ trương khuynh
hướng sáng tác thơ tự do, được nhóm Sáng Tạo hưởng ứng và cổ vũ. Từ đó cho tới
nay, sau hơn nửa thế kỷ thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền vẫn là của Thanh Tâm
Tuyền, chưa bao giờ nhân rộng ra thành một trường phái có tác phẩm hẳn hòi.
Người ta thừa nhận cái công của Thanh Tâm Tuyền hô hào cho khuynh hướng thơ tự
do, nhưng không ai thừa nhận cái thành công của khuynh hướng này.
Nhà thơ Hà thượng
Nhân, một nhà thơ kỳ cựu trong làng thơ miền Nam, thường được anh em trong giới
gọi đùa là Hà Chưởng môn (trong phim kiếm
hiệp) có lần cho chúng
tôi biết, trong một lần ông được mời vào Ban giám khảo chấm thi một giải thơ
toàn quốc (VNCH), khi biết trong số các tác giả được đề nghị có Thanh Tâm
Tuyền, ông đã nói với Vũ Hoàng Chương và Cao Tiêu xin từ chối vào Ban Giám
Khảo. Ông Hà thượng Nhân vẫn thường nói với chúng tôi: “Ai
bảo Thanh Tâm Tuyền là nhà thơ, là thi sĩ, dù ông ta là một người có kiến thức,
có tài...”
Trở lại với bài viết
của Ông Lâm Văn Sang trên VTimes số 31, quả thật tôi không hiểu được lý do gì
đã gây nên cái cảm giác “bất an” cho tác giả bài báo, khi ông viết:
“Những người làm thơ khác ở San Jose (và một phần khác ở hải ngoại, những
người có dịp ghé qua thành phố này ra mắt sách của họ), những thi tập khác (cá
nhân hay tập thể) vẫn tạo cho tôi cảm giác bất an”.
Chúng ta biết ở hải
ngoại và cả trong nước hiện nay thơ đã lạm phát đến mức báo động, nhưng thực ra
chẳng hề hấn gì. Ít năm trước thời kỳ thơ mới, tờ “Đông Pháp” ở Hà Nội mở cuộc
thi thơ đã có đến 1.500 người dự thi. Hồi đó Hoài Thanh đã tự hỏi: “nước ta có
bao nhiêu thi sĩ? 40 ngàn hay 400 ngàn? và ông cho biết 4.000 người có thơ đăng
báo, in sách nhưng có chừng 40 người có thơ đưa vào “Thi Nhân Việt Nam ”. Số 4.000
hay 40 ngàn hay 400 ngàn người làm thơ thời đó đến nay không ai biết tên tuổi
họ (ngoại trừ một số trong “Thi nhân Việt Nam ”). Và trong con số 40 người đó
cho tới nay cũng chỉ một số ít người đi vào văn học, đếm được đầu ngón tay,
được người đời nhắc đến.
Sự sàng lọc, đào
thải của thời gian và công luận, của người đọc là một “cán cân công lý” vô tư
nhất.
Tiếp đến, ông LVS
viết: “Chúng ta vẫn tự hào một cách
chung chung về chuyện đã mang cả sinh hoạt văn hóa (văn học nghệ thuật) của
miền Nam
ra hải ngoại và từ đó đã tiếp tục phát triển sinh họat này. Tin tưởng như thế
và tiếp tục bịt mắt mình, chúng ta đã đi một đoạn đường khá dài, hơn 30 năm.”
Không rõ ông LVS đã
có hay sẽ có chương trình, đề án nào cho sinh hoạt và việc nối dài của VHNT
miền Nam
ở hải ngoại? Và ông LVS cũng dư biết tất cả mọi sinh hoạt chính trị, văn nghệ,
văn chương học thuật ở hải ngoại đều là những hoạt động tự phát của từng nhóm,
từng hội đoàn, tùy theo khả năng và tấm lòng của họ đối với nghĩa lớn của cộng
đồng, của dân tộc, mà phần lớn đều cùng một hoàn cảnh là lực bất tòng tâm.
Người đọc bài viết của Ông LVS dù vô tư đến mấy cũng cảm thấy bị xúc phạm, khi
mình bị gán ghép cho hành vi “tự bịt mắt” với thái độ “tự hào chung chung”.
Có phải tác giả bài
báo cho rằng “Tự bịt mắt mình” nghĩa là mù quáng, là không nhìn về phía trước
mà đi tới, dù phía trước đó là cái gì, là nơi chốn nào. Cứ đi tới, đừng nhìn
lại quá khứ, vứt bỏ hết quá khứ, dù quá khứ đó như thế nào. Trong khi người
sáng tác lại rất cần chất liệu của quá khứ để viết, để suy gẫm và để rút tỉa
làm bài học cho chính mình và cho người đi sau. Tôi tin trong chúng ta không ai
tán thành việc tiếc nuối quá khứ, khóc than dĩ vãng. Không ai chủ trương hằn
học hận thù với quá khứ, nhưng nhất định không ai có thể quên được quá khứ. Quá
khứ chính là vốn sống của hiện tại, là bài học lớn và là kinh nghiệm cho hướng
đi trong tương lai.
Một đoạn khác trong
bài báo:
“Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế
giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng một cách oan
uổng.”
Thật tình, tôi không
hiểu ý của tác giả bài báo muốn nói gì về nhận định này.
“Thế giới thơ từ
1975 cho đến trước đó, năm 1954” mà ông LVS nói đến là thế giới những gì? Theo
sự hiểu biết thô thiển của tôi thì “thế giới thơ” từ năm 1954 đến 1975 là một
“thế giới” thơ của hai ba thế hệ người làm thơ Bắc (di cư) Trung , Nam ,
phong phú và đa dạng cả về nội dung tư tưởng đến hình thức. Nói đến “thế giới
thơ” miền Nam là nói đến Thi Văn Tao đàn, đến các giải thi thơ toàn quốc, đến
các thi văn đoàn và không thể không nói đến những tên tuổi như Quách Tấn và Á
Nam Trần Tuấn Khải (thơ Đường), Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tạ Ký, Bùi Giáng,
Tô Thùy Yên, Hà Thượng Nhân, Trần Tuấn Kiệt, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Diên Nghị,
Hoàng Lộc, Tuệ Nga, Quỳ Hương... Thơ tự do có Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh
Hiệp... Sau 75 “thế giới thơ” đó đã bị chế độ XHCN với văn hóa Mac-xit xóa
trắng một cách không thương tiếc ở trong nước. Vũ Hoàng Chương ra khỏi tù, mấy
ngày sau qua đời. Tạ Ký chết bụi chết bờ, Hồ Điệp chết trên đường vượt biên.
Tác phẩm của họ bị cho là sản phẩm văn hóa đồi trụy, bị cấm đọc, cấm lưu
truyền, cấm lưu trữ... Đó mới chính là sự xóa trắng đáng kinh hoàng, chứ ở hải
ngoại người ta vẫn trân trọng, vẫn đọc và vẫn kế tục trong sáng tác, trong lưu
hành, phổ biến.
Có phải cái “xóa
trắng” mà tác giả bài báo muốn nói là từ sau 75, ra hải ngoại, và riêng tại San
Jose không ai nối nghiệp Thanh Tâm Tuyền, không phát động trào lưu sáng tác thơ
văn xuôi, thơ tự do, thơ không vần? Có phải vì nghĩ vậy mà ông LVS giáng bút
một cách rất chủ quan và mỉa mai rằng:
“San Jose từ lâu nay đã trở thành một xí nghiệp thơ, sản xuất
ra những vần điệu nghiêm chỉnh đóng thành tập”.
Một ý niệm rất đơn
giản mà phổ quát đã có từ xa xưa là khi nói đến thơ là nói đến vần điệu. Từ xưa
nay, một câu nói, một đoạn viết mà không có vần có điệu thì không ai gọi là
thơ.
Tuân Tử trong thiên
Nho Hiệu đã phân biệt Thi (là thơ) với Thư (là văn xuôi). Với sự phân định rạch
ròi đó, trong văn học cổ Trung Hoa có hai bộ sách - Kinh Thi và Kinh Thư.
Một số người ngày
nay hoặc do không phân biệt được, hoặc do quá dễ dãi, thường nói “viết thơ cho
gia đình”, “đi lấy thơ ở bưu điện”, thay vì nói viết thư, đi lấy thư... nhưng
một người hiểu biết bình thường không ai lầm lẫn giữa thư và thơ; giữa văn xuôi
và văn vần.
Như một nguyên tắc
bất di bất dịch, từ lâu đời: thơ không phải/ và không thể là văn xuôi; thư
không phải/ và không thể là văn vần. Nay khuynh hướng thơ cách tân, thơ siêu
thực, thơ dung tục muốn làm một cuộc “cách mạng” thi ca bằng cách tạo ra một
loại thơ tối nghĩa, không vần, không điệu, một mớ chữ nghĩa xà bần, thanh ít
tục nhiều nhằm biểu lộ hoặc để thỏa mãn tính lập dị, khoa trương kiến thức, đem
chữ nghĩa ra thách đố người đọc, mà có khi chính người làm ra bài thơ đó cũng
không hiểu mình muốn nói gì.
Bạch Cư Dị của Trung
Hoa cách đây hơn 1.100 năm lúc làm xong một bài thơ, đọc cho người vú già nghe
rồi hỏi “Có hiểu không?”. Nếu đáp “hiểu” thì ông mới chép lại (bằng không thì
vứt bỏ).
Xin tác gải bài báo
và quý vị nhà thơ cách tân trước khi đạp đổ cái cũ (thơ vần) hãy từ trong cái
cũ bước ra, ít nữa phải là một người đã từng sành sỏi thơ vần và hãy chỉ ra cho
mọi người biết và hiểu được cái hay cái dở của cái vần và cái không vần.
Lâu nay Ông LVS vẫn
cổ vũ cho thơ “tân hình thức” gồm có thơ không vần, hay là thơ văn xuôi, thơ
dung tục và thơ siêu thực.
Trích dẫn lời nói
của nhà văn Ba Lan Witold Gombrowicz “văn chương không phải là một xí nghiệp,
cũng không phải là một sản phẩm xí nghiệp”, nhưng ông lại nói “Không phải mọi
thứ được in ra đều là tuyệt phẩm”, và trước đó ông viết: “Từ lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ như CƠTGBBNEC của Hải Phương”.
Ý kiến này của tác
giả bài báo cho tôi cảm tưởng tập thơ của Hải Phương không là tuyệt phẩm thì
cũng là một thi tập vượt lên trên tất cả những tập thơ khác, “từ lâu lắm”.
Tôi hoàn toàn không
có ác cảm nào với cá nhân các “nhà thơ cách tân, siêu thực”, cũng mong quý vị
thực hiện thành công cuộc cách mạng thi ca này chậm lắm là vào cuối thế kỷ 21.
Riêng loại thơ dung tục thì xung quanh tôi rất nhiều người tỏ ra ngại ngùng khi
liếc mắt tới loại thơ trần truồng giả hiệu này. Dư luận chung cho rằng cũng chỉ
vì muốn mua chút danh bằng tính lập dị, không giống ai, một số người đã tạo ra
một loại “dâm thư” qua thơ, một cách bệnh hoạn. Tôi gọi đó là loại thơ trần
truồng giả hiệu, bởi vì tôi tin một cách chắc chắn rằng quý vị “nhà thơ dung
tục” ấy chỉ bày biện chữ nghĩa trần truồng lên giấy, nhưng không bao giờ dám
bày nhưng thứ đó trước mặt cha mẹ, con cái, thân nhân, người quen kẻ lạ... Chỉ
khi nào quý vị ấy lột hết mọi thứ ..., ngồi ăn cơm chung với gia đình hay ngồi
tiếp khách như quý vị đã viết ra trên giấy thì bấy giờ loại thơ kia mới có “cầu
chứng” (với tác giả của nó).
Thử hỏi nếu gia tài
thi ca Việt Nam từ Cung Oán Ngâm khúc, rồi Chinh Phụ ngâm đến Truyện Kiều, sang
tới thi ca thế kỷ 19 cho đến tận thời kỳ thơ Mới của Tự Lực văn đoàn và “thế
giới thơ miền Nam” mà tất tất đều là “thơ cách tân”, thơ “tân hình thức”, thơ
siêu thực thì văn học Việt Nam ngày nay sẽ ra sao? Và nếu hôm nay thơ siêu thực
thay thế toàn bộ thơ “vần điệu nghiêm chỉnh” thì các thế hệ sau này làm thế nào
để tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi? Hay đến lúc bấy giờ tất cả mọi người đều đã
trở thành những “siêu nhân”, có thể đọc và hiểu được thứ ngôn ngữ thần chú,
huyền bí, hiểm hóc ấy! Giả dụ vị khai quốc công thần Lý Thường Kiệt làm bốn
câu tứ tuyệt “Nam quốc sơn hà Nam đế
cư...” bằng loại thơ cách tân siêu thực thì đã có được tác dụng gì với lòng
dân, với triều đình nhà Hán, và còn tồn tại đến ngày nay không?
Thật là quá đáng,
trong khi tác giả bài báo hết lời tán tụng đối với tập thơ “siêu thực” có tên
“cám ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười” của Hải Phương thì ông lại nặng
lời đay nghiến những người làm thơ ở San José: “Nhiều người khác ở đây (San Jose) cũng móc gan ruột ra tuyên bố tương
tự như một nhãn hiệu cầu chứng cho những gì phát xuất từ 1954 cho đến 1975 mới
là chính hiệu”.
Tôi cư ngụ tại San
Jose đã mười lăm năm nay, từng theo dõi mọi sinh hoạt thơ văn trong vùng nhưng
chưa bao giờ nghe ai “móc gan ruột ra” tuyên bố như vậy “để làm cầu chứng” như
ông LVS gán ghép.
Ông LVS không những
đã mâu thuẫn với chính mình mà còn có lời lẽ thiếu tôn trọng người khác qua
đoạn văn trên và đoạn văn trích dẫn dưới đây:
“Kế thừa là chuyện dễ nói hơn dễ làm trong văn chương nhắm
mắt và bịt mắt. Thế giới thơ ở San Jose đã không
tiếp nối trào lưu sáng tác thơ đa dạng ở miền Nam trước 1975. Đọc thơ ở đây,
người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm
1954, đã bị xóa trắng một cách oan uổng.”
Xin tác giả bài báo
chỉ dạy cho làng thơ San Jose
biết thế nào là văn chương mở mắt.
Phải chăng văn
chương mở mắt là loại văn chương siêu thực, cách tân, dung tục mà ông LVS tâm
đắc khi ông hết lời tán tụng tập thơ CƠTGBBNEMC”, khi ông đưa ra kết luận:
“Hải Phương đang làm sống lại ngôn ngữ thơ Việt Nam qua
CƠTGBBNEC”. Một
nhà thơ nữ nói với người viết: “đọc thơ HP, đọc câu này của LVS ngẩn ngơ hết
biết”.
Không ai có quyền
bắt buộc một người khác thích cái này hay không thích cái kia. Một bức tranh
đối người này cho là đẹp, người kia phê bình là xấu. Một bài thơ người này khen
hay, người khác chê dở; một thiếu nữ đi ngang qua, người này khen là đẹp, duyên
dáng, người kia cho là “thường”.
Người ta có thể vì
một lý do nào đó mà ưa thích và ca ngợi một cô gái làng chơi, không ai cấm cản
và chê trách điều đó; Nhưng tuyệt nhiên, không thể vì vậy mà quay sang nặng lời
chê bai, lên án một cô gái nhà lành.
Môt người có thể là
“fan” của loại vũ sexy show, topless; nhưng không thể quay lại chê bai, tẩy
chay loại vũ truyền thống dân tộc.
Cũng vậy, qúy vị có
thể cảm khoái với loại tranh lập thể, trừu tượng, nhưng xin đừng quay sang chỉ
trích trường phái “cổ điển” mà cho rằng (ví dụ): “San Jose lâu nay đã trở thành
một xí nghiệp tranh vẽ, được lắp ráp cảnh trí với chân dung nghiêm chỉnh, dùng
sơn màu và cọ đưa lên khung vải...”. Như
thế có ổn không?
Theo tôi, ranh giới
giữa các trường phái nghệ thuật cũng như giữa thơ siêu thực và thơ vần có hai
dạng thái rõ rệt.
Song Nhị,
No comments:
Post a Comment