Tuesday, January 10, 2017

VI KHUÊ - GIỌT LỆ... TA ĐI... MỘT GIA TÀI VĂN HỌC

Song Nh

Mỗi khoảnh khắc của thời gian, mỗi giai đoạn của cuộc sống, mỗi một đời người rồi sẽ qua đi. Tất cả những rộn rã, tất bật của hôm qua, hôm nay cứ trôi theo dòng năm tháng, xô giạt về cuối mỗi cuộc hành trình của kiếp nhân sinh. Nhưng dòng chảy tháng năm kia thì hun hút, bất tận. Từ một căn duyên nào đó, người ta gặp nhau, thêm một mối dây liên hệ, một tương quan trong suy nghĩ, tương đồng hay dị biệt, tâm giao hay đối nghịch về mặt tư duy và tâm chất... thì phương diện sinh hoạt cấu trúc tinh thần của loài người vẫn hiện diện và liên tục tiếp diễn như một sự đòi hỏi bắt buộc. Mọi vận dụng lao động trí não của mỗi cá thể văn nghệ sĩ chân chính đều là sự đóng góp cho nhu cầu và tài sản tinh thần chung của nhân loại.

Về phương diện văn học, mối liên hệ giữa tác giả với tác giả; và giữa tác giả với tác phẩm là một tương quan phản ánh thân thế và thời đại mà một ngày kia là tư liệu. Đối với một tác giả đã đi vào đại chúng, mối tương quan giữa tác giả và tác phẩm văn học là những tài liệu để soi rọi lại con người, tác phẩm và thời đại cho công việc khảo cứu, phê bình về sau. Tư liệu đó đôi khi chỉ là những chi tiết tản mạn nhưng lại hữu dụng khi nó phản ánh một góc cạnh của quan niệm, tư duy, tình cảm của tác giả, nhân vật và bóng dáng thời đại trong tác phẩm.

Tên tuổi của nhà văn, nhà thơ Vi Khuê đã rất quen thuộc với độc giả trong và ngoài nước, nhất là độc giả hải ngoại từ sau 1975.

Viết về Vi Khuê, nhiều người đã làm công việc đó. Nhận diện vóc dáng tài năng của một người cầm bút tầm cỡ là điều tôi không có ý định. Nhưng như một thôi thúc tình cờ khi tôi nhận được những tác phẩm do tác giả - từ Washington D.C gửi tặng. Tôi đã ngồi “ôm món quà văn nghệ” lần lượt đọc từng tác phẩm Thơ/Văn của Vi Khuê. “Giọt Lệ” là một trong 71 tập thơ dự thi giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương, một trong những giám khảo, hai năm sau đọc lại đã đưa ra kết luận: “Đây là một thi phẩm giá trị”.
Rồi hai thi phẩm “Cát Vàng” và “Tặng Phẩm Tình Yêu” của thập niên 80s tại hải ngoại đã từng được các “danh gia” cầm bút hết lời khen ngợi. Tôi e dè khi viết đôi dòng thay lời cảm tạ tấm thịnh tình của tác giả. Tôi không biết khi đọc bài viết, bà sẽ nghĩ thế nào về một người tương đối hãy còn xa lạ như tôi. Sau ba tập thơ, tôi lại đọc văn Vi Khuê. “Vẫn Chờ Xe Thổ Mộ”, tập truyện ngắn xb năm 1993, khi anh em H.O chúng tôi bắt đầu lục tục sang Mỹ. Hết “Vẫn Chờ Xe Thổ Mộ”, tôi đọc tiếp “Những Ngày Ở Virginia” và “Ngựa Hồng Trên Đồi Cỏ”. Đọc xong một loạt tác phẩm ấy, tôi cảm nhận được nét tài hoa phong phú của Vi Khuê và sự đóng góp lớn lao của bà cho Văn Học nước nhà nói chung, và văn học hải ngoại nói riêng.
Sau lần bà đến Cali dự lễ “49 Ngày tưởng niệm phu quân - Nhà báo Chử Bá Anh” tại Hội Quán Việt Nam, và rời San Jose trở về Hoa Thịnh Đốn, các thân hữu trong Cơ sở Thi Văn Cội Nguồn và Diễn đàn văn học nghệ thuật

“Đất Đứng” quyết định thực hiện một số đặc biệt về Vi Khuê. Nhà văn Nhật Thịnh, Chủ biên “Đất Đứng” đề nghị tôi viết một bài về chủ đề này. Đắn đo nhưng rồi tôi viết.
Qua nhiều lần tiếp xúc với chị qua điện thoại và những lần gặp gỡ khác, tôi thấy ở Vi Khuê không phải chỉ có “chất thơ đài các và thâm trầm” như nhận xét của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, mà nét nữ lưu đài các, vẻ thông minh trầm mặc còn thể hiện rõ ở phong cách của bà.
Vi Khuê đã có ba tập truyện và bốn tập thơ xuất bản. Thơ Vi Khuê là cả một kho tàng ngôn ngữ quý phái, sắc sảo, thâm trầm, mới mẻ trong ý tưởng diễn đạt mà gần gũi với tâm hồn, thiết tha với tâm sự của thế nhân.

Năm 1994, khi tôi phụ trách biên tập tuyển tập thơ “Gởûi Người Dưới Trăng”, nhận được tám bài thơ Vi Khuê  góp vào tuyển tập, tôi đã khựng lại khi đọc các bài “Mai Mốt Tôi Về”, “Gởi Hồn Theo Sách” và “Chúng Ta Đi Ngàn Dặm Sẽ Quay Về”. Lời thơ, ý thơ như quyện lấy tâm hồn người đọc, nhấn chìm cả hiện tại vào cái dĩ vãng tang thương nhức nhối của mỗi con người trong cảnh đời lưu lạc, sau cơn hồng thủy bảy mươi lăm.
Có lẽ không phải riêng tôi mà người đọc thơ, yêu thơ đều thấy tâm sự mình ở đó, hoặc là, đều nhận thấy đã có Vi Khuê thổ lộ tâm sự thay mình. Trong “Mai Mốt Tôi Về”, thấy gì trên chiếc cầu cũ dòng sông xưa. Mơ về thuở mười tám đôi mươi của mình mà thương xót, tội nghiệp những mái đầu mười tám đôi mươi đã chít khăn sô từ mùa ly loạn.

Tất cả những ấn tượng từ một tương lai lùi dần về dĩ vãng đã được gói gọn trong bốn câu thơ mở đầu. Để rồi từ đó biết bao ấn tượng lan man kết thành một chuỗi dài khổ đau của cả một dân tộc. Nỗi khổ đau kia cho đến cuối đời tóc đã bạc, “Đá cũng còn cau mặt”...
Bằng một khổ thơ chuyển nhập với lối dùng điệp tự độc đáo, tác giả kéo tiềm thức trở về với nổi trôi bất hạnh của mấy thế hệ con người:

Thì thế thì thôi, thì lận đận
Thì long đong, thì đã lênh đênh
Thì như ai đó ngoài mưa lạnh
Chìm nổi theo con sóng gập ghềnh

Tôi đọc tiếp “Chúng Ta Đi Ngàn Dặm Sẽ Quay Về”. Quay về, sau những xa lạ, bâng khuâng, ngọt ngào khách sáo, vu vơ, giả dối, gạt lừa, khủng bố... là một thực tại của quê hương nghèo nàn, xiêu vẹo. Cuộc sống bần cùng xơ xác. Mượn hình ảnh em bé mồ côi cúi gặm chút xương gà moi lên từ túi rác ni-lông để nhắn nhủ với mọi người. Lời tự thú hay một quy trách:
Chúng ta sẽ trao em lời tự thú
Là người dân Nước Mới Hai Trăm Năm
Để em hiểu: Bốn Ngàn Năm Lịch Sử
Phải thay đời. Cho bớt nỗi long đong.

Có phải thơ Vi Khuê là một hiện tượng “lên đồng” như chính tác giả đã thổ lộ khi phát biểu tại Hội quán Việt Nam chiều ngày 4. 5. 96. Hôm đó nữ nghệ sĩ Kiều Loan chọn bài “Tống Biệt Hành” trong tập “Hoa Bướm Vườn Thơ Tôi” để ngâm. Do cẩn thận, Kiều Loan trao tập thơ cho tôi và tỏ ý nhờ tôi chọn một bài để cô trình bày. Đọc lướt qua một lượt, tôi dừng lại ở bài “Tống Biệt Hành”.
Tôi hỏi: “Cô đọc bài này rồi chứ?” Kiều Loan đáp: “KL đã chọn bài này. Anh thấy thế nào? Được chứ ”.

Trong ý nghĩ trước đó tôi đã muốn cô ngâm “Tống Biệt Hành”. Sau đó MC đã giới thiệu: “Nữ nghệ sĩ Kiều Loan ngâm bài “Tống Biệt Hành” của Vi Khuê viết để tiễn biệt phu quân của chị.”
Bởi có câu của MC “để tiễn biệt phu quân của chị.” tác giả đã phải đăng đàn cải chính. Trong khi phát biểu với cử tọa, Vi Khuê nói rằng: “Làm thơ, có khi người ta như lên đồng; viết theo tiếng vọng từ tiềm thức, từ vô thức, từ một cõi xa xăm nào đó, mà chính mình không hiểu rõ!”.
Như vậy ngôn ngữ của Vi Khuê trong “Tống Biệt Hành” là ngôn ngữ lên đồng. Đó là hiện tượng xuất thần. Mà ý tứ, ngôn ngữ xuất thần thì hẳn nhiên bài thơ đã đạt đến tuyệt đích của cảm xúc và rung động.
Xuân Diệu cũng đã từng nói rằng: “Thơ là ngôn ngữ đặc biệt của thi nhân. Chỉ có người thơ mới có được thứ ngôn ngữ riêng biệt ấy”.
Tác giả Vi Khuê cũng cho biết bà viết “Tống Biệt Hành” theo gợi ý của nhà văn Võ Phiếân. Theo đó, Võ Phiến đề nghị mỗi người làm thơ nên viết một bài theo ý “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm. Nhưng theo như phát biểu hôm đó, Vi Khuê đã viết “Tống Biệt Hành” theo cảm xúc và ngôn ngữ riêng của mình. “Như thế để bài thơ không là những... bản dịch”.
           
TỐNG BIỆT HÀNH CỦA THÂM TÂM
VÀ VI KHUÊ
Cách đây hơn nửa thế kỷ Thâm Tâm đã tiễn một người đi trong “Tống Biệt Hành” của ông. Tiễn người đi mà tác giả nghe lòng dậy sóng. Người đi trong tâm sự mênh mang, trong hoàng hôn đáy mắt. Con đường đời nhỏ hẹp. Sự nghiệp còn ngoài tầm tay. Chí lớn đã quyết đành. Công chưa thành, danh chưa toại, “ba năm, mẹ già cũng đừng mong”. Và:
Người đi, ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà như chiếc lá bay
Chị thà như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say

“Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm đã là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ thi nhân. Tôi đã được đọc một số ít bài “âm vọng” từ “Tống Biệt Hành”. Và tôi cũng đã viết bài “Di Tản Hành” tháng Tư 1975. Nhưng phải chờ đến “Tống Biệt Hành” của Vi Khuê, tôi mới tìm được ở tác giả này, một nhân vật thứ hai đầy tính chất triết lý nhập thế, dấn thân của một tráng sĩ Đông phương hay của một lãng nhân Phù Tang thời phong kiến, tay không đi tìm nghiệp lớn.
Vi Khuê đã dựng lên một đối tượng ngang bằng vai vế để nhắn nhủ, để khích lệ người ly khách. Dù Người đi về phương nào chưa chắc được, nhưng Người cứ đi. Cuộc tiễn đưa nào mà không mang ý ngậm ngùi, cảm xúc. Người ly khách trong “Tống Biệt Hành” của Vi Khuê có rượu, có trăng, có lệ tràn và một thoáng môi cười của người đưa tiễn. Rượu sẽ nói lời vĩnh biệt. Rừng không gió, trời không mây, vườn ngự không hoa và có cái gì đó không dằn được những cảm xúc trắc ẩn từ cõi lòng để kẻ ở phải thảng thốt nói với người đi:
Ta tiễn Ngươi mà,
Ta tiễn Ngươi!

TA VỀ VÀ TA ĐI
“TA VỀ” của Tô Thùy Yên để vĩnh biệt mười lần ba trăm sáu mươi lăm thiên thu, hóa thân làm vượn cổ của thời đại văn minh rừng rú. “Ta Về” để nhìn thấy những đổi thay bạo ngược. “Ta Về” với ảo giác một thoáng mừng vui xôn xao tưởng tượng. “Ta Về” như chiếc lá rơi về cội. Rưới một chứt rượu hồng mong giải oan cho cuộc biển dâu nhưng oan nghiệt ấy không những không giải được mà còn chất chồng thắt buộc.
“Ta Về” để ngao ngán trước cảnh đời hoang phế, để vỗ về nhen nhúm gầy dựng lại những thứ thân quen, cửa ngõ, giàn hoa, bức tường... mà cũng là để nhen nhúm niềm hy vọng, niềm tin cho cuộc hồi sinh.

“TA ĐI” của Vi Khuê để từ biệt nước non, từ biệt mẹ già, từ biệt dĩ vãng thân yêu, từ biệt nhưng lại cố níu kéo mọi thứ để mang theo, từ bông cỏ may đến dòng sông ửng nắng, hàng dây kẽm gai của giai cấp “tố khổ tố giàu trăm thứ tố”.
“Ta Đi” của Vi Khuê, bài thơ tác giả ghi là “Vọng âm bài “Ta Về” của Tô Thùy Yên:
* Ta về như sợi tơ trời nắng
Chấp chới trời buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can.
(Tô Thùy Yên)

* Ta đi, như thể chim lìa tổ
Như lá lìa cành tự tối nay
Một tiếng tiễn đưa là tiếng sét
Oan khiên là cuộc chiến tranh này.
(Vi Khuê)

“Ta Về”, về để nhìn thấy một cảnh đời đổi thay, phế hoang, ngao ngán. “Ta Đi”, đi để bỏ cảnh đời thay ngựa giữa dòng, để bỏ cảnh đời phế hoang, ngao ngán ấy. Hai hành trình ngược chiều nhưng lại đồng quy, đọng lại ở một đáy sâu tình tự. Đó là tình cảm thiêng liêng ràng buộc của con người Việt Nam với đất nước quê hương:  “Ta Về”, về để cởi lốt con vượn cổ, trở lại chốn cũ nơi xưa, nơi đã nửa đời thân yêu gắn bó.

“Ta Đi”, người đi “vẫy chào non nước mộng”, vẫy chào “ngày xuân chưa kịp ước”. Vẫy chào một dĩ vãng chinh chiến, hận thù. Vẫy chào “năm mươi năm quyện câu hò Huế”.

“Ta Đi” và ta đã đến. Đến bến bờ lộng lẫy hoa đăng như trong thần thoại nghìn đêm lẻ. Thế mà “Đến nơi... chưa phải là nơi đến”. Hy vọng ao ước không phải chốn này. Cả một dĩ vãng và tình cảm trĩu nặng sau lưng. Nơi đến, giờ đây lại là hành trình ngược lại. Ở đó mới thực sự là chỗ yên lành ao ước:
Ta đi. Ta đến. Ta về chứ
Đi. Đến. Về! Ôi! đất nước mình!

Những dấu chấm và chấm than kia là những ấn tượng xoáy vào tâm can người đọc, cũng như hình ảnh người đi “bước ngập ngừng theo gió”, “Thả ống quần cho dính cỏ may” đã gieo một ấn tượng thật mãnh liệt. Đó là cách sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt tâm cảm một cách rất tài tình của tác giả Vi Khuê.

Các tác phẩm Văn của Vi Khuê đã xuất bản nhiều người đã viết giới thiệu, phẩm bình. Tôi chú ý bài điểm sách – “Nữ sĩ Vi Khuê” của tác giả Tống Diên Tô Dương Hà trong “Hoa Bướm Vườn Thơ Tôi”. Một phần, tôi muốn biết anh viết những gì khi đọc Vi Khuê. Phần khác vì anh là bạn thân, cùng làm việc ở một cơ quan với tôi trước 1975. Sau 75 cùng ở tù chung trại, chung phòng từ Nam ra Bắc. Tôi ít được đọc bài viết của anh, mặc dù biết anh là thứ nam của nhà văn Bình Nguyên Lộc. Vì thế khi gặp bài này tôi đọc… hơi kỹ.

Theo tôi, nếu độc giả muốn biết “Vẫn Chờ Xe Thổ Mộ” là tập truyện có nội dung thế nào, muốn tìm hiểu giá trị văn chương của tác phẩm thì xin để người điểm sách đọc cho nghe tình tiết mỗi cốt truyện, dẫn đi từ một quán Tàu ở Los Angeles về tới Sài Gòn thăm Dịch vụ khóc mướn quốc doanh.

Và cuối cùng nghe anh kết luận: “Tất cả truyện của bà đều như thế cả: hấp dẫn, sống động, tuyệt vời”. Theo tôi bài viết của Tống Diên Tô Dương Hà cũng tinh tế, sắc bén và lôi cuốn như chính tác phẩm mà anh giới thiệu. (20. 8. 96)

2.
Đã gần 14 năm kể từ ngày hạnh ngộ giữa chúng tôi - những người trót đeo đẳng nghiệp thơ văn. Dần dà sau đó Vi Khuê tham gia các sinh họat Cội Nguồn, rồi là thành viên và trong Ban Biên tập tạp chí Nguồn. Thời gian sau này do tuổi tác và sức khỏe bà ít đến San Jose, nhưng Vi Khuê vẫn thường gọi điện thoại và thư từ thăm hỏi anh em trong sinh họat Cội Nguồn. Hiện bà vẫn viết cho tờ Kỷ Nguyên Mới tại vùng Hoa Thịnh Đốn. Bà thường nhắc lại kỷ niệm mà “Rất nhớ tiếc những ngày sơ kiến giữa chúng ta. Thật đậm đà, trân trọng”. Và “Xin anh chuyển lời thăm và cảm tạ những ai thường nhắc đến ‘người đi không trở lại này’ (Thư 22 July 09).

Chúng tôi còn hẹn nhau một lần hội ngộ tại Cali.

Năm 1994, một năm sau ngày tới Mỹ, Thi Đàn Lạc Việt tổ chức Giải Thi Thơ, Vi Khuê là một trong các giám khảo được mời. Nhà thơ Dương Huệ Anh, Chủ tịch thi đàn này kêu gọi tôi, gần như là nài nỉ tôi góp thơ dự thi, nên tôi gửi mấy bài đáp lễ. Sau đó  Vi Khuê điện thoại nói với tôi:  “Đáng ra anh không nên gửi bài dự thi vì thơ anh còn hay hơn thơ những người chủ trương treo giải…” Từ đó bà thường xuyên đăng thơ tôi trên Phụ Nữ Diễn Đàn.

Ngày 13 tháng 11 năm 2010, tôi từ California sang vùng thủ đô Washington D.C. ra mắt quyển “Nửa Thế Kỷ Việt Nam”, chị (*) và cháu Nhất Anh có đến tham dự. Tiếc là tôi không có nhiều ngày ở lại để đến nhà thăm chị. Từ sau đó khi có những việc vui buồn tôi vẫn gọi thăm, nhưng dần dà sức khỏe chị yếu, chúng tôi vắng tin nhau, nhưng “cách mặt mà không xa lòng”. Các thân hữu nhóm Cội Nguồn vẫn luôn nhắc nhở Vi Khuê với tình cảm trân trọng. 

(Hiệu chính, 12 – 2013).

(*) Nhiều lần Vi Khuê nhắc tôi gọi “Chị” cho thân mật.

No comments:

Post a Comment