Qua Nhạc Kịch Minh Hoạ Kiều của cố nhạc sĩ Phạm Duy
HỒ LINH
Đạm Tiên là khuôn mặt phụ nữ đẹp thứ ba trong Đoạn Trường
Tân Thanh tức Truyện Kiều của Nguyễn Du, sau Thuý Kiều và Thuý Vân. Chỉ tiếc một điều, tác giả kể chuyện nàng khi
đã ra người thiên cổ!
Thời tuổi trẻ còn ở quê ngoài Bắc (trước 1954 di cư vào
Nam), tôi đã từng thấy những ngôi mộ hoang tương tự mộ của Đạm Tiên. Tôi nghĩ
có lẽ là của những người chết đói thời năm “Dậu” 1945, nằm bên vệ đường quê giữa
đồng ruộng xanh tươi và con sông Vân nước lẫn phù sa đỏ ngầu, vào những buổi
chiều tà, nắng quái còn đỏ rực góc trời phía tây trường sơn.
Lên Đệ Tứ trung học, tôi bắt đầu làm quen với tác phẩm Đoạn
Trường Tân Thanh của Nguyễn Du. Tới đoạn Vương Quan kể chuyện nàng Đạm Tiên, tự
nhiên tôi thấy rất yêu nhân vật này qua những giòng thơ chải chuốt và rất tinh
tế của tác giả, và nhất là lại nhớ miền quê xưa, khi đọc hai câu thơ tả ngôi mộ
của Đạm Tiên:
“Sè sè nấm đất bên đường,
Dầu dầu ngọn cỏ vửa vàng, nửa xanh”.
Cách đây gần hai mươi năm, quý anh trong Hội Thân Hữu Chính
Trị Kinh Doanh Đà Lạt có mời đi nghe nhạc sĩ Phạm Duy giới thiệu tác phẩm nhạc
kịch Minh Hoạ Kiều.
Đọc chương trình, tôi thấy có phần diễn chính về Đạm Tiên,
nhân vật tôi thích. Buổi đó là một chiều Thứ bảy, tôi đã có mặt tại quán COFEE
LOVER trên đường Capitol, San Jose để có dịp thưởng thức vở Đại Nhạc Kịch này.
Giờ đây, cụ nhạc sĩ đã tiêu diêu miền cực lạc nên chẳng biết tác phẩm Nhạc Kịch
này đã hoàn tất chưa, có hay hơn những gì tôi đã được nghe và tới khi nào mới
thực sự được trình diễn?
Chỉ có âm thanh, mặc dù do các nghệ sĩ nổi tiếng ngâm, hát,
quả thực không thể nói là một tác phẩm Nhạc Kịch được, (nghe qua CD), tuy nhạc sĩ Phạm Duy có dẫn giải về kỹ thuật
đưa nhạc vào kịch bản, nó vẫn thiếu một đạo diễn và cảnh vật trên “sân khấu”.
Nói đúng ra, chỉ là những đoạn phổ nhạc thơ của Nguyễn Du cùng những âm thanh
vay mượn của các loại đàn, tân cũng như cổ, và nhất là những tiếng động “như ma
cười quỉ khóc” tạo nên bởi các dụng cụ điện tử phát âm. Vì thế, những lớp nhạc kịch
sau đây, người viết mạo muội thêm thắt chút đỉnh đỡ được phần nào hụt hẫng. (những
chữ nghiêng)
Tôi xin bỏ đoạn đầu, mà chi đi ngay vào phần kịch diễn về Đạm
Tiên.
1/ Sau buổi hội Đạp Thanh, chiều xuống, mọi
người ra về.
Cảnh buổi chiều, mặt
trời mới ngả về tây. Nhưng vùng tha ma mộ địa chìm trong khói hương mịt mờ, tro
tiền vàng vừa đốt quyện bay dưới chân đi. Những nhóm người lầm lũi bước dọc
theo con đường có con suối nho nhỏ lượn ngay bên…
Nhạc trở nên trữ tình, lãng mạn, tiếng hát như điệu ru em,
được đệm bằng đàn tỳ bà chậm, u uất, tiếng tam thập lục réo lên những cung “ai”
bi thảm, giọng ngâm kể chuyện của Ái Vân:
Ngổn ngang gò đống
kéo lên (1)
Thoi vàng-vó rắc
tro tiền giấy bay
Tiếng cồng âm u, vang lên...rồi tắt lịm, theo sau là một loạt
âm thanh rào rạt như gió cuốn, mây trôi của tiếng vuốt trên dây đàn ghi ta...
Tiếp đến một đoạn phổ theo tân nhạc với nhạc cụ tây phương,
nhất là violon và sáo, giọng ca êm ái của Thái Hiền tả cảnh chiều:
Tà tà bóng ngả về
tây
Chị em thơ thẩn
dan tay ra về
Bước lần theo ngọn
tiểu khê
Lần xem phong cảnh
có bề thanh thanh
Nao nao giòng nước
uấn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ
cuối ghềnh bắc ngang.
Nếu được dàn dựng, cảnh
này thực là đẹp, với một buổi chiều, nắng còn đổ trên đường đi. Mọi người đã
qua vùng tha ma mộ địa. Bóng hai nàng
Thuý Kiều, Thuý Vân thấp thoáng gần tới bên cây cầu bác qua dòng suối réo rắt,
có bóng liễu rủ thướt tha.
2/ Kiều gặp mộ Đạm
Tiên:
Một nấm đất nhỏ, nhô
lên mé đường đi, bên sông lau lách tĩnh mịch… Trên mộ cỏ xanh lẫn cỏ vàng xơ
xác mấy cụm, không hương, không khói, cũng chẳng một nhánh hoa là những gì phải
có trên một nấm mộ vào ngày hội này.
Bỗng tiếng trống âm
u từ đâu vọng lại, giọng ngâm cổ của Thanh Ngoan, theo thể hát nói với những âm
thanh rung động, được đệm bằng đàn đáy, tiếng phách dồn khổ đổ rền, khiến cảnh
vật càng thêm thê lương (mướn cô Thanh
Ngoan mãi ở VN, chỉ để ngâm 2 câu này! có cần thiết không?):
“Sè sè nắm đất
bên đường
Dầu dầu ngọn cỏ
nửa vàng nửa xanh...”
Lúc đó, cảnh trí bỗng
như có mây che hết ánh mặt trời. Một mầu
xám u tối, mấy cụm liễu rủ bên suối, thoáng một vài ngọn gió thổi qua khiến mấy
nhánh liễu rủ đong đưa, nhờ đó không gian bớt hiu quạnh.
Vương Quan đã đi một
nửa cầu, quay lại, thấy Kiều đang đứng, bịn rịn bên cạnh mả Đạm Tiên,
nên mới lên tiếng nói về nàng ấy.
Lúc này, âm thanh đã trở lại rộn rã bằng những nét tân nhạc,
với giọng ca của Duy Quang:
Vương Quan mới
dẫn gần xa
Đạm Tiên nàng ấy
xưa là ca nhi
Nổi danh tài sắc
một thì
Xôn xao ngoài
ngõ thiếu gì yến anh.
Kiếp hồng nhan có
mong manh
Nửa chừng xuân
thoắt gẫy cành thiên hương...
Ở đây, chúng ta gặp
từ “nửa chừng Xuân” mà Khái Hưng đặt tên cho một tác phẩm hay nhất của
ông. Âm vang dồn dập của nhạc tây
phương, kèm thêm tiếng đàn đáy nổi bật nét cổ đông phương.
3/ Khách phương xa tới, nhưng người đẹp
đâu còn nữa!
Tiếng hát Tuấn Ngọc
đổi sang Minor:
Có người khách ở
viễn phương
Xa nghe cũng nức
tiếng nàng tìm chơi
Thuyền tình vừa
ghé đến nơi
Thì đà trâm gẫy
bình rơi bao giờ
Buồng không tạnh
vắng như tờ
Dấu xe ngựa đã
rêu mờ mờ xanh.
Tôi rất thích mấy câu cảnh tả nhà Đạm Tiên này. Chỉ hơi ngỡ ngàng khi nghe nó được phổ nhạc tây
phương lại do một anh chàng chuyên hát nhạc ngoại quốc trình bầy. Nếu nó được
diễn tả bằng một giọng ngâm “Kiều” (do bà Hồ Điệp, hay bà Bích Thuận ) có lẽ hợp
hơn.
Hai câu đầu, tác giả
dùng hai chữ “tìm chơi” thực là phũ phàng đến tội nghiệp!. Khách từ nơi xa tới,
không phải vì tình bạn, hoặc đến thăm một người nổi tiếng (“đến thăm”, “lại
chơi”), mà chỉ muốn “tìm” tới để
“chơi”…Thế mà Nguyễn Du cũng dùng hai câu thực thảm thiết, tiếc cho khách
phương xa không được gặp người mình ngưỡng mộ, hay hơn cả hai câu thơ của Thôi
Hộ.
“Buồng không tạnh vắng như tờ,
Dấu xe ngựa đã
rêu lờ mờ xanh”
Thơ của Thôi Hộ:
“Nhân diện bất
tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu
tiếu đông phong”
(Năm nay trở lại,
người đâu tá?
Hoa thắm nụ cười
gió lướt mau)
Lời ca hơi đổi đi
cho hợp với giòng nhạc.
Giọng nữ ảo não của
Ái Vân:
Trải qua thỏ lặn
ác tà
Ấy mồ vô chủ ai
mà viếng thăm!
Sau lời ca, có tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào... kéo dài
trong không gian. Nếu được đưa lên sân khấu
cảnh vắng vẻ giữa buổi chiều hôm văng vẳng tiếng nhạc buồn này thì thực cảm động.
4/ Kiều khóc Đạm Tiên:
Nhạc trở nên chua xót, đau thương với những cung minor , tiếng
chuông vọng lại từ xa, dào dạt âm vang của nhạc hòa tấu Tây phương:
Giọng nữ Thái Hiền:
Lòng đâu sẵn mối
thương tâm
Thoát nghe Kiều
đã đầm đầm châu sa
Đến đây, lời ca quá dài nên “melody” không thoát được nhạc
điệu sẵn có của thơ lục bát:
Đau đớn thay phận
đàn bà
Lời rằng bạc mệnh
cũng là lời chung
Phũ phàng chi bấy
hóa công
Ngày xanh mòn mỏi
má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp
người ta
Khéo thay! thác
xuống làm ma không chồng!
Nào người phượng
chạ loan chung
Nào người tiếc
lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ
đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm
một vài nén hương
Kiều lấy mấy thẻ
hương trong túi xách, bật hồng đốt lên vái trước mộ, rồi cắm xuống.
Đổi sang giọng nam của Tuấn Ngọc để làm nổi bật mối hệ lụy
giữa Kiều và Đạm Tiên:
Gọi là gặp gỡ
giữa đường
Họa là người dưới
suối vàng biết cho
Lời ca chấm dứt, âm thanh còn vang lên tiếng chiêng nhỏ, tiếng
mõ đều đều buồn bã. Tôi nghĩ, nên để Ái Vân “ngâm” nốt hai câu này, đưa giọng
hát của Tuấn Ngọc vào nghe thực lạc lõng!
5/ Kiều đề thơ lần thứ
nhất:
Màn này hơi khó để có
một thân cây lớn đủ cho Kiều đề thơ. Sân khấu vẫn giữ góc cạnh cây cầu nhỏ bắc
qua con suối có liễu rủ đìu hiu. Đã chiều hôm, ráng trời dìu dịu, bớt gay gắt,
chỉ còn những tia nắng nhạt, xuyên khoai.
Ở đây, nhạc sĩ chơi nhạc hòa tấu Tây phương, dùng để diễn tả
nỗi u hoài, xa vắng làm tựa cho cảnh Kiều đề thơ...
Giọng Thái Thảo:
Một vùng cỏ áy
bóng tà
Gió hiu hiu thổi
một và bông lau
Rút trâm sẵn giắt
mái đầu
Vạch da cây vịnh
bốn câu ba vần
Tiếng hát kể chuyện
của cô:
Thơ rằng:
“Hồng nhan lắm
đa truân
Tài Hoa mà mệnh
bạc
Suối vàng sương
dẫm nát
Mây bạc vẫn còn
vương”
(Thơ của Phạm Duy
thay Kiều, chỉ có 4 câu, 2 vần thôi)
Đến đây, nhạc
theo lối hát Trống quân diễn tả lời can gián của Thúy Vân:
Vân rằng: “Chị
cũng nực cười
Khéo dư nước mắt
khóc người đời xưa”
Đổi giọng nữ khác:
Rằng: “Hồng
nhan tự ngàn xưa
Cái điều bạc mệnh
có chừa ai đâu?
Nổi niềm tưởng
đến mà đau
Thấy người nằm
đó biết sau thế nào”
Rồi tiếng hát của Duy Quang thay lời Vương Quan, (giục hai
chị về thôi không chiều hôm tới rồi),
theo thể tân nhạc như lấp liếm câu chuyện thì thầm giữa hai Kiều:
Quan rằng: “Chị
nói hay sao
Một lời là một
vận vào khó nghe
Ở đây âm khí nặng
nề
Bóng chiều đã
ngả dậm về còn xa...”
Nhạc trở nên êm dịu...với mấy tiếng đàn bầu buông lơi. Chiều tà bỗng ngả mầu âm u.
6/ Đạm Tiên hiện
hình: nòi tình Kiều gặp nòi tình Đạm Tiên.
Âm thanh bỗng trở nên siêu thực (từ của Phạm Duy), theo loại
nhạc liêu trai với những tiếng u...u...vang vọng. Ở đây nhạc nhờ kỹ thuật của
computer tạo nên những âm thanh gây ấn tượng sợ hãi bằng những nhạc cụ Tây
phương.
Giọng nữ, Thái Hiền
như tiếng Kiều thì thầm:
Kiều rằng: “Những
đấng tài hoa
Thác là thể
phách, hồn là tinh anh
Dễ hay tình lại
gặp tình
Chờ xem ắt thấy
hiển linh bây giờ..”.
Ngay lúc đó, một làn
gió từ xa, cuốn theo bụi bay chuyển dần tới chỗ chị em Thuý Kiều…thấp thoáng
bóng Đạm Tiên lướt qua trước mặt hai chị em…rồi lại đãng lãng lìa xa…hình ảnh dấu
giầy của Đạm Tiên thiết nghĩ không cần chi tiết vì khán giả ở xa chẳng nhìn ra.
(nếu quay Video thì lại khác).
Tiếng khánh rung như tiếng nhạc đeo nơi cổ chân người đẹp,
tiếng sột soạt của tà áo bay trước gió, tạo thành những âm thanh uấn lượn, rùng
rợn (thường thấy trong những phim ma).
Tiếng hát giọng
trầm của Tuấn Ngọc:
Một lời nói chửa
kịp thưa
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay
Ào ào đổ lộc
rung cây
Ở trong dường
có hương bay ít nhiều
Dè chừng ngọn
gió lần theo
Dấu giầy từng
bước in rêu rành ràng.
Tiếng ngân xa dần xa dần kèm theo tiếng đàn violon tạo nên
tiếng gió ào ào, rên xiết...âm u, tiếng trống chầm chậm từng tiếng như đếm bước
chân của Đạm Tiên. Đây có lẽ là đoạn diễn tả hiện thực nhất của phần đầu. Nếu được đưa lên sân khấu thì thực là một cảnh
ma quái, rùng rợn, ánh đèn mờ đi, xanh ngắt, thấp thoáng bóng trắng đi như lướt
trên ngọn cỏ... với những âm thanh nổi da gà. Đèn tắt!
7/ Kiều đề thơ lần thứ hai.
Đèn sáng trở lại.
Hình bóng Đạm Tiên mất
hút, Trời sáng lên, cảnh vật rõ dần. Vẻ
hoảng hốt của Thuý Vân và Vương Quan thấy rõ. Trái lại Kiều thì thành tâm khấn
vái trước mộ.
Nhạc theo điệu kể
chuyện với tiếng ca trong trẻo của Ái Vân:
Mặt nhìn ai nấy
đều kinh
Nàng rằng: “Này
thực tinh thành chẳng xa
Hữu tình ta lại
gặp ta
Chớ nề u hiển mới
là chị em”
Đã lòng hiển hiện cho xem
Tạ lòng nàng lại
nối thêm vài lời
Dòng thơ lai
láng bồi hồi
Gốc cây lại vạch
một bài cổ thi.
Thái Thảo hát tân
nhạc:
“Đóa hồng mơn mởn
trên cành
Trời làm giông
tố tan tành kiếp hoa
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh
khéo là ghét nhau”
(Phạm Duy viết 2
câu đầu, không biết có phải cổ thi ? Mà cổ thi thì ngâm hoặc hát chèo, chứ ai lại
phổ theo tân nhạc?)
Cảnh Kiều thoăn thoắt
đề thơ trên thân cây...
Trời trở nên trong
sáng, bỏ nấm mồ lại phía sau,, tạm xóa đi cái u-uất của hình bóng Đạm Tiên. Hai chị em lững thững đến bên nhịp cầu bắc qua suối, nơi Vương Quan
đang đứng. Phần
nhạc kịch, phân đoạn Đạm Tiên chấm dứt.
Vài nhận xét cuối:
Phần tích cực:
1/ Quả thực, nhạc sĩ Phạm Duy đã đi đầu trong giới nhạc sĩ
Việt Nam viết Nhạc Kịch về Truyện Kiều. Duy Cường đã rất công phu khi hoà âm
cho cả tác phẩm, (cha con dễ hoà hợp), và phối trí âm thanh điện tử thay vì sân khấu Broadway phải
dùng một ban nhạc đại hoà tấu sống.
2/ Được mọi người trông chờ kịch bản này được thực hiện
trên sân khấu.
3/ Trước đây, Nguyệt san Việt Nam xuất bản tại Canada, số
11, tháng 8/1997 có bài báo khen Phạm Duy :
“Minh Hoạ Kiều thật sự là một Symphonie Việt Nam có khả năng tạo thêm sinh lực
đưa Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du đi xa hơn vào tương lai trong thế giới văn
minh kỹ thuật hiện đại”
Phần tiêu cực:
1/ Theo Phạm Duy, tác phẩm Đại Nhạc Kịch Minh Hoạ Kiều này
tuy diễn cả Truyện Kiều, nhưng chỉ lấy những phần quan trọng
2/ Không biết tác giả căn cứ vào đâu để cho đoạn thì ngâm,
đoạn thì hát. Nhạc được phổ lúc thì cổ như Trống Quân, Quan họ, lúc thì theo
tân nhạc…và dùng cả nhạc cổ điển Tây Phương để diễn đạt?
3/ Theo thiển ý tôi, người đã được nghe Phạm Duy giới thiệu
từng đoạn, tuy không biết sâu rộng về âm nhạc, nhưng tôi có thể nói tác giả lời
khen trên không có một trình độ âm nhạc nào khi nói Minh Hoạ Kiều là một
Symphonie, hoặc nhắm mắt khen liều vì chưa từng được nghe âm thanh của “Symphonie”
này! Khen như thế còn tệ quá lời chê. Hơn nữa đã trực tiếp làm hoen ố Truyện Kiều
cũng như nhục mạ tài năng của Nguyễn Du khi nói nhờ đó mà Truyện Kiều mới có
Tương Lai trong thế giới văn minh (sic)!!!
Phần giới thiệu thêm:
1/ Quách Vĩnh Thiện.
Ở đây, chúng ta không thể không nói tới kỹ sư tin học Quách
Vĩnh Thiện đã bỏ ra năm năm trời phổ nhạc cả tác phẩm Truyện Kiều gồm 66 bản nhạc
thu trong 7 CD dài 8 tiếng đồng hồ, dài hơn tác phẩm cổ điển Christmas, gần 3
tiếng (1734) của J.S. Bach và chỉ chịu
thua tác phẩm The Road (1997) của Frederic Rzewski trường phái Avand Gard dài
11 tiếng. Tôi chưa dám nghe cả bộ, nhưng thưởng thức ít đoạn trên You Tube cũng
hay không kém những bản âm nhạc hiện đại!
Vài nhận xét về tác phẩm:
- Suốt 66 phân đoạn qua 2778 câu thơ, trong cùng một
“melody” nương theo nhạc điệu của thể thơ Lục Bát của Truyện Kiều. Tác giả chỉ
đổi từ Slow rồi Boléro, Cha Cha Cha…và gì nữa tôi không biết, những đoạn “mix”
cũng như các nhạc cụ tây phương như violon, guitar, piano, flute, dân tộc như tỳ
ba, đàn tranh, sáo, … một đội ngũ ca sĩ hùng hậu như Quỳnh Lan, Hương Giang,
Mai Thảo, Tố Hà, Xuân Phú, Thuỵ Long (gần như không chuyên nghiệp, còn những ai
nữa tôi chưa nghe hết cả tác phẩm nên không biết), đơn ca hoặc hát bè để thay đổi
không khí. Tuy nhiên, mỗi lần chỉ nghe vài phiên khúc, thơ sẽ được nhạc rước đi
nên nghe khá hay. Nếu ai muốn thưởng thức toàn bộ tác phẩm Truyện Kiều, chưa được
ai ngâm hết mấy ngàn câu thơ, thì mở “You Tube” lần lượt nghe toàn bộ từ câu đầu
tới câu cuối qua âm nhạc Quách Vĩnh Thiện thì cũng rất đáng thời giờ bỏ ra
trong 7, 8 tiếng (xin mở volume vừa thôi) như nghe băng đọc truyện.
- Tất cả chỉ chú trọng vào Thuý Kiều nên các nhân vật khác
đều nhẹ đi. Riêng phần “truyện” của Đạm Tiên (là chủ thể của bài này) được dàn
trải trong 3 phân đoạn.
* Cuối phân đoạn 2, chủ đề Thanh Minh Đạp Thanh (từ câu
39-76): Kiều gặp mả Đạm Tiên.
* Cả phân đoạn 3, chủ đề Hồng Nhan Bạc Mệnh (từ câu
77-118): sự gắn liền định mệnh của Kiều với Đạm Tiên.
* Nửa đầu của phân đoạn 4, chủ đề Kim Trọng (từ câu
118-158): Kim, Kiều gặp gỡ, nhưng đoạn đầu là cảnh Đạm Tiên hiện hình…và rồi
Kim Trọng mới xuất hiện.
Ở đây, chúng ta sẽ thấy câu nhận xét “Tiếng Việt đầy nhạc
tính” là rất đúng. Hầu như trong 66 phân đoạn, nhạc được phổ mà không cần thay
một chữ nào trong 2778 câu thơ. Riêng tựa của những phân đoạn được đặt tuỳ hứng
của nhạc sĩ.
2/ Frederic Rzewski:
Một tác giả đặc biệt, ông Burton Wolfe, đã viết kịch bản
Truyện Kiều , âm nhạc và đối thoại (song ngữ Việt, Anh) đúng theo lối trình diễn
Broadway Musical. Một người ngoại quốc có công đưa Truyện Kiều, tác phẩm đã từng
được thế giới vinh danh, lên sân khấu Đại Nhạc Kịch, cũng đáng trân trọng. Chỉ
tiếc tác giả không làm cho tác phẩm Truyện Kiều nổi tiếng như Miss Saigon
(1970), được diễn tại Broadway Theater nhiều buổi (trên 5000 buổi). Miss Saigon
phỏng theo Đại Nhạc Kịch Madame Butterfly của Giacomo Puccini, đạo diễn là
Nicholas Hytner, với đề tài thời sự về những ngày sau cuộc chiến ở Việt Nam nên
dễ câu dẫn khán giả.
Tuy nhiên, vở Nhạc Kịch Truyện Kiều cũng đã được trình diễn
tại thành phố Houston, Texas ngày 12/9/10.
Biết bao giờ mới tới San Jose CA của chúng ta.
Không biết thời còn sinh tiền, nhạc sĩ Phạm Duy đã nghe hay
biết gì về hai tác phẩm trên?
Hồ Linh
No comments:
Post a Comment