Tuesday, January 23, 2018

65 NĂM CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT 1953 - 2018



CHƯƠNG I

GIỮA MỘT QUÊ HƯƠNG HIỀN HÒA  

*** 
Trong suốt dọc dài lịch sử VN (ngoại trừ cuộc chiến Nam Bắc 1955-1975) có hai biến cố làm tổn hại nhân mạng nhiều nhất, đó là cuộc CCRĐ và Cuộc Thảm Sát mậu thân 1968.
Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945 - 2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. 


TÔI SINH RA ĐỜI
DƯỚI MỘT NGÔI SAO XẤU

Tôi sinh ra và lớn lên qua những giai đoạn đầy biến động của đất nước. Chế độ phong kiến lụi tàn. Chiến tranh Việt Pháp bùng nổ dữ dội. Chủ nghĩa cộng sản lan tràn, xói mòn, đục khoét, đầu độc, làm băng hoại tận gốc rễ nền tảng đạo lý, văn hóa và tình tự dân tộc. Chủ trương kích động hận thù, đấu tranh giai cấp, biến đời sống thôn làng đang hiền hòa, êm ả trở nên sôi sục, ngột ngạt oán thù. 

Tuổi thơ của tôi trải qua trên đồng ruộng, ngồi trên lưng trâu, hai mùa lạnh buốt thấu xương, nắng cháy da người. Tôi đã từng tung tăng trên sân trường, miệt mài, hăm hở. Vừa bước chân vào năm đầu Trung học chưa được mấy tháng đã bị đuổi học vì con cái thành phần địa chủ, “giai cấp bóc lột”. Sáu năm lêu bêu thất học, sau định mệnh run rủi, tôi đã được trở lại mái trường trung học giữa Sài Gòn hoa lệ như một phép lạ, tự do thênh thang, tình người thắm đậm.

Với một phần đời thơ ấu khổ đau nhiều hơn hạnh phúc, tai họa thời thế cứ đổ dồn lên gia đình tôi từng cơn bất hạnh. Khi qua khỏi bậc trung học, bước chân vào cổng trường đại học, tôi biết tôi phải làm gì, phải chọn con đường nào, phải phấn đấu ra sao để bù lại những thiệt thòi thua sút, để không phụ mọi ân tình. Điều trên hết, tôi biết đâu là con đường ngay thẳng để đi; đâu là tà gian phải tránh. Tôi đã chọn cho mình một lý tưởng. Nói khác đi, đã có một ý hướng để cho mình đi theo và phụng sự.

Tôi yêu đất nước, tôi yêu lịch sử dân tộc, tôi hãnh diện về một dân tộc quật cường đánh đuổi mọi thế lực ngoại xâm, một dân tộc có những bậc vĩ nhân “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, đem chí nhân mà thay cường bạo”.

Người cộng sản Việt Nam, lấy chiêu bài giải phóng dân tộc, lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân đánh đuổi thực dân Pháp để du nhập vào quê hương một chủ nghĩa tham tàn, tệ hại nhất trong lịch sử năm nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Cho đến hôm nay, sau gần nửa thế kỉ, kết thúc một thời kỳ kinh hoàng của chiến tranh bom đạn, nhưng ý thức hệ Quốc Cộng còn đó. Bốn mươi năm chiến tranh kết thúc, nhưng cuộc chiến vẫn còn âm ỉ, giằng dai. Đất nước tuy đã thống nhất lãnh thổ nhưng tình tự dân tộc vẫn cách ngăn, chia rẽ, hận thù... lòng người ly tán. Tất cả chỉ vì ý thức hệ cộng sản, một lý thuyết và thực tiễn đã bị lịch sử đào thải, nhân loại quay lưng. 

Xuất phát từ hiện thực cuộc sống hay là một tiên tri, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã viết: “Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu”. Cuộc đời ông ngắn ngủi, nhưng sự nghiệp văn chương ông để lại cho hậu thế thì to lớn và tồn tại mãi với thời gian.

Người ta ai cũng tin mỗi con người sinh ra dưới một ngôi sao hộ mạng. Người phương Tây vốn “bẩm sinh” duy lý mà họ cũng tự đặt mình trong vòng chi phối sinh mệnh, hên xui của những Hồ Cáp, Thiên Xứng, Nhân Mã...

Bản thân ngồi ngẫm lại đường đời, đếm những mùa xuân đi qua trên mái tóc, từ thơ ấu đến giờ biết bao buồn vui, khổ hạnh khó quên và đáng nhớ... Rồi chợt nhận ra rằng ngôi sao “chiếu mạng tận tình” trên sinh mệnh dân tộc Việt Nam cho tới nay là ngôi sao vàng. Tôi sinh ra đời khi ngôi sao này đã xuất hiện trên vòm trời quê tôi và trên vòm trời các vùng quê hẻo lánh khác.

Quê tôi - Hà Tĩnh, phần đất cực nam của lãnh thổ Giao Chỉ - Đại Việt, trước khi bờ cõi mở mang từ Quảng Bình vào tận Cà Mau. Hà Tĩnh, nơi vòng eo cơ thể mẹ Việt Nam, vùng đất nhỏ hẹp cỗi cằn. Bề ngang so với chiều rộng Đông -Tây của lục địa Hoa Kỳ thì chỉ là gang tấc. Con người từ nơi đây phải vươn lên mà sống, được hun đúc, và do hoàn cảnh cơ cực với phong thổ ấy mà đã sản sinh ra những Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Đặng Dung, Nguyễn Biểu, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hải Thượng Lãn ông, và những lớp văn võ sau này...

Tôi sinh ra và lớn lên giữa thời loạn lạc. Tuổi thơ tôi bắt đầu từ cuộc Thế Chiến thứ Hai mở đầu đến kết thúc. Những năm tháng ấu thơ của tôi khét lẹt mùi thuốc súng. Đoạn đời tiếp sau đó cũng lại loạn ly, bom đạn đuổi theo. Cuộc kháng chiến mười năm của toàn dân (1945 - 1954), quê tôi hứng đầy đạn bom của máy bay Pháp. Khi Tây thực dân cúi đầu sắp hàng về nước, cũng là lúc tôi chưa kịp quay nhìn lại quá khứ ấu thơ của mình, thì tai họa ập đến. Cuộc Cải Cách Ruộng Đất phủ trùm tang tóc. Tôi mất hết tất cả, mất từ lời ru của mẹ đến tình máu mủ ruột thịt, tình quê hương và nghĩa đồng bào.

Tôi có được một quãng đời ngắn ngủi mẹ tôi ru con bằng những câu ca dao, những bài hát ví, những câu hò, những bài hát Dặm Nghệ Tĩnh. Bài học vỡ lòng cha tôi dạy: “Lớn lên con đi đánh thằng Nhật, thằng Tây”. Trẻ em quê tôi tám tuổi đã phải ra ngoài đồng ruộng, đã phải leo lên lưng trâu, mùa đông lạnh cắt da; mùa hè nắng như lửa đốt. Tuổi thơ tôi qua dần trên lưng trâu, trên đồng ruộng khô cằn, không thơ mộng như câu thơ, tiếng hát:

Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.
(thơ Giang Nam)

Hàng hàng thế hệ nơi quê tôi vẫn lây lất trong nhục nhằn, thiếu thốn quanh năm, từ vật chất đến tinh thần.... Thế mà lớn lên, mười lăm, mười bảy là đã “Tình lúa duyên trăng”, đậm đà tình yêu – yêu nước, yêu nhà, “yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ”, từ trong mạch máu được ông cha truyền thụ. Tuổi thơ của tôi như bông hoa vừa hứng ánh sáng mặt trời thì đã vội vàng héo úa đúng vào thời kỳ sôi nổi đó của toàn dân.

Hiệp định Genève 20-7-1954 chấm dứt chiến tranh, chia đôi đất nước, người Pháp quay lưng, ôm nhục bại trận, bỏ lại tham vọng thực dân ra về, thì quê tôi cũng bắt đầu một thời kỳ bất hạnh nhất, thê thảm nhất.

Đầu óc trẻ thơ như trang giấy trắng, tôi khó quên được những cái Tết đầu đời, nối tiếp buồn vui mà chẳng còn tìm lại được. Nhà thơ Tạ Hữu Thiện trong nhóm Nhân Văn, Giai phẩm đã viết:

“Ai lớn lên không từng yêu đương
Ai biết yêu không từng hò hẹn
Việc ấy lẽ thường...”

“Ai lớn lên không từng yêu đương”, không từng đi qua những phần đời đầy kỷ niệm buồn vui. Tình yêu nào không có những mộng mơ; Tuổi thơ nào không có những nôn nao mong đợi – mong mẹ đi chợ về, mong Tết đến, mong chiếc áo đẹp, mong tiền lì xì.... Tuổi thơ của đám trẻ chúng tôi thời đó có nhiều thứ để nô nức mong chờ.

Tháng Chạp quê tôi mưa phùn, gió lạnh và mây xám đặc trời. Trong khung cảnh địa lý, kinh tế và xã hội vùng quê, nhất là quê tôi – Nghê Tĩnh – đón xuân, ăn tết không có hoa Anh đào Hà Nội, không có Mai vàng Sài Gòn nhưng lại có đủ lễ nghi truyền thống dân tộc. Có cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh, bánh dày, bánh tét, có hội hè lễ lạc, cờ xí trống chiêng – lễ rước thần làng, lễ Tống Cựu Nghênh Tân, lễ bàn giao chìa khóa điện thờ Đức Thánh giữa tân và cựu Cố Đạo, một vị chức sắc có quyền uy tinh thần “tối thượng”, được trọng vọng, kính nể nhất của làng xã với nhiệm kỳ hai năm.

Chức sắc này được các thân hào nhân sĩ trong làng bầu chọn rất trang trọng. Rồi tục lệ “xông đất” sau Giao Thừa, một, hai giờ sáng. Quê tôi nghèo, nhưng người dân “quê mùa” cần cù chân chất ấy cũng biết thụ hưởng thú vui tinh thần, làm thăng hoa cuộc sống suốt cả “tháng Giêng ăn Tết ở nhà”. Tôi đã từng nô nức đi xem các lễ hội đánh đu, đánh cờ người, hát trống cơm, hát dặm...
Và hình ảnh rộn ràng của buổi sáng Mồng Một Tết, từng đám trẻ lên năm, lên mười, quần áo mới đủ sắc màu vàng, xanh đỏ... kéo đến nhà các bô lão mừng tuổi đầu năm để được lì xì. Ngày ấy tôi đã từng được lì xì những đồng tiền Thành Thái, (tiền bằng đồng, hình tròn, giữa có lỗ hình vuông, trên mặt đồng tiền có khắc bốn chữ Hán).

Năm tôi đến tuổi vào lớp Bốn Tiểu Học, là cái Tết truyền thống cuối cùng của quê tôi, và có lẽ của tất cả những vùng do Việt Minh kiểm soát.

Tôi nhớ rõ có những người tá điền, có những người vần công giúp việc, những người hàng bao thế hệ từng thân thiết, từng nhờ cậy lẫn nhau, sáng Mồng Một kéo thành đoàn đến mừng tuổi bố mẹ tôi. Họ đã xin hẹn từ chiều hôm trước, từ sáng Ba Mươi vì phải chờ có người “đạp đất” xong đã. Có người mang theo một cúc rượu trắng; có người chỉ mang theo vài trái cam sành; có người một “cơi” trầu đã têm sẵn... Những thứ đó trong vườn, trong nhà tôi không thiếu, nhưng bố mẹ tôi rất quý, vì đó là tấm lòng, là nghĩa tình qua lại. Họ đến như người thân, không màu mè khách sáo, nói cười thoải mái, ăn uống no nê. Họ về, mang theo quà bánh, nếp, gạo, và tiền lì xì cho con cái họ. Trên nét mặt mỗi người tỏa rạng vẻ vui tươi hồn nhiên, tin cậy lẫn nhau, tình cảm đậm đà, hy vọng vào mùa màng và cuộc sống sang năm sung túc...

Đời sống thôn quê đã bao đời trải qua như vậy. No đói, giàu nghèo đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Xóm làng xôn xao, rộn rã ngày mùa, ngày hội, ngày Tết, những ngày lễ lạc trai gái hẹn hò...

Cuộc sống yên lành, xóm làng gắn bó, dù trong suốt cuộc chiến tranh chống Pháp. Tuổi trẻ của tôi, của thanh thiếu niên quê tôi kế thừa từ đó, hăm hở, rộn ràng...

Thế rồi Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước. Giang sơn Việt Nam bị chia cắt thành hai. Mạch máu Bắc Nam đứt đoạn. Người dân quê tôi cùng một lúc hứng chịu hai vòng tai họa: cuộc đấu tố Cải Cách Ruộng Đất, thanh trừng giai cấp và cuộc chiến Bắc Nam tiến hành sau đó để “giải phóng” toàn dân thoát khỏi tự do no ấm, trở thành nghèo nàn, cùm kẹp.

Khi tiếng súng của cuộc chiến vừa chấm dứt, thì cuộc thanh trừng giai cấp bắt đầu. Những người tá điền, những người vần công, giúp việc, những người chòm xóm mới hôm qua no đói, buồn vui, tối lửa tắt đèn có nhau ấy, bỗng sau một đêm thức dậy họ trở thành những kẻ gian ngoa, hung ác, mất hết tính người, sau khi được đội Cải Cách, những đảng viên cộng sản trung kiên nhồi nhét vào đầu óc họ những giả trá, bịp lừa, hứa hẹn, răn đe trong chính sách cướp của giết người lương thiện. Cả xóm làng, tỉnh, huyện, khắp vòm trời quê tôi mùi tử khí bao trùm, ám khí bắt bớ, tra tấn, hành hình, chết chóc ghê rợn bủa vây mỗi gia đình, mỗi con người. Người ta bàng hoàng trước cơn đại họa như trên trời đổ xuống.

Song NHỊ

=

No comments:

Post a Comment