Sunday, October 1, 2017

VIET DIASPORA



SONG NHỊ


                                Di tản từ trên nóc nhà (Sứ quán Hoa Kỳ và trụ sở CIA tại SG

Hai máy bay C-130 Hercules từ căn cứ không quân Clark tại Philippines đang bay phía trên sân bay Tân Sơn Nhất. Họ được lệnh không hạ cánh. Trinh thám báo tin về sân bay: 2 trung đội bộ binh Quân đội Nhân dân Việt Nam đã được tăng viện cho công binh.

Một phi công Việt Nam Cộng Hòa đã hạ cánh máy bay chiến đấu F-5 trên đường băng và bỏ lại phương tiện trong khi máy vẫn chạy. Một chiếc xe jeep toàn lính Việt Nam Cộng Hòa cố chạy tới một chiếc máy bay trước khi nó cất cánh.


"Có khoảng 3.000 thường dân rất lo lắng đang ở đường băng", tướng Homar Smith báo cáo. "Tình hình có vẻ như đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát".

Graham Martin ngồi một mình trong phòng làm việc, nhìn thấy cây đổ và nghe thấy tiếng trưởng văn phòng CIA thét ở ngoài sân. Khi Kissinger gọi điện thoại ngay sau đó để thông báo ý của Tổng thống Ford là đại sứ Mỹ sẽ ra quyết định cuối cùng về chuyện di tản, ông lắng nghe giọng mệt mỏi, kiệt sức và ốm yếu của Graham Martin một cách kiên nhẫn.

10h43': Lệnh tiến hành "Option Four" (di tản bằng đường biển và đường hàng không) được đưa ra. Tuy nhiên, Martin vẫn tin chắc rằng vẫn "còn thời gian" để đàm phán và có một "giải pháp danh dự". [ Sài Gòn ngày 30 tháng Tư 1975 trong mắt một phóng viên Anh ](*)

==

Đó là một ngày dài nhất trong đời tôi. Từ 8 giờ sáng, tôi bắt đầu ngồi đợi giờ thứ 25. Tôi bước ra hành lang lầu 3 của cơ quan đứng nhìn sang, xem hoạt cảnh những chiếc trực thăng của Hải quân Mỹ thay nhau lên xuống trên nóc tòa nhà sứ quán Hoa Kỳ, trên đại lộ Thống Nhất.

Năm giờ chiều hôm đó, ngày 29 tháng Tư, tôi rời khỏi nhiệm sở sau khi thẩm quyền cao nhất của cơ quan cho biết một cuộc di tản như kế hoạch được thỏa thuận và sắp xếp trước với phía Mỹ đã hoàn toàn hết hy vọng. Tôi lái xe ngang qua Tòa Đại sứ Hoa Kỳ để tận mắt nhìn thấy những chiếc trực thăng kia chở đi bao nhiêu định mệnh may mắn ưu tiên, và bỏ lại bao nhiêu số phần tuyệt vọng. Một con số không thể nào đếm được. Giờ phút đó, nơi đó có hàng trăm người nhưng còn các nơi khác, con số ấy là hàng trăm ngàn, hàng triệu...

Một khoảng đường phía trước sứ quán Mỹ số người tụ tập khá đông, tình hình không còn kiểm soát được nữa. Mọi người hốt hoảng tìm đủ cách để có thể thoát thân. Một người Mỹ lái chiếc xe hơi bóng láng tấp vào lề, vừa mở cửa bước xuống, một đám thanh thiếu niên bụi đời xúm vào làm thịt chiếc xe. Người Mỹ tay cầm cái samsonite vừa leo lên khỏi bức tường rào, một người lính Marine từ phía trong khuôn viên sứ quán ôm súng xốc tới nhảy lên đạp người Mỹ kia rơi xuống.

Tất cả hy vọng, niềm tin và lý tưởng người Mỹ đưa tới nơi đó, từ giờ phút đó cũng rơi theo! Tôi lái xe chạy thẳng về nhà, hệ thần kinh không phải căng ra mà chùng lại.

Đoạn tường thuật trên đây của phóng viên John Pilger có lẽ là sự kiện của những ngày giờ trước trước khi chiếc trực thăng đầu tiên đáp xuống và rời khỏi nóc nhà, bay ra hạm đội ngoài khơi.

Người dân miền Nam sau những ngày hỗn loạn; và người dân Sài Gòn sau mọi cố gắng đi tìm con đường di tản, vượt thoát bất thành, tất cả bàng hoàng trước cơn ác mộng đổ ập xuống mỗi con người, mỗi gia đình khi chứng kiến cả một chế độ, cả một giềng mối quốc gia sụp đổ. Người dân ngơ ngác hoang mang trước một cuộc đổi đời khốc liệt. Nỗi ám ảnh, sợ hãi một quá khứ còn tươi máu chưa rời: những tàn bạo trong thời chiến, những vụ bắt cóc, ám sát, phá đường, giựt sập cầu, giựt mìn xe đò, pháo kích, bắn tỉa... 

Nỗi ám ảnh đó đã thẩm nhập vào tim óc mọi người, từ thôn quê đến thành thị, mà không cần phải học tập, tuyên truyền. Bởi người dân miền Nam đã từng chứng kiến, từng trải qua, từng chịu đựng, từng là nạn nhân, kẻ mất con, người mất cha, mất chồng, mất vợ....

Người ta tưởng rằng hàng chục triệu người dân miền Nam chỉ hoảng loạn trong những ngày Sài Gòn thoi thóp và thất thủ. Khi “cách mạng” về thành thì biến động coi như đã xong, đời sống sẽ trở lại bình thường. Nhưng kể từ ngày đó, cơn ác mộng mới thực sự đổ ập xuống, âm ỉ nhưng kinh hoàng hơn, trên từng gia đình, từng thân phận mỗi con người, từ em bé cho đến người già yếu gần đất xa trời.

Sau khi mọi chuyện đã đâu vào đó, người ta không còn hoảng hốt, tứ tán tìm đường trốn chạy. Ai đã về nhà nấy. Lặng lẽ, âm thầm chuẩn bị cho một cuộc vượt thoát liều mạng kéo dài liên tục trong gần 20 năm. Một bộ phận hàng triệu con người đã phải tách rời khỏi cộng đồng dân tộc. Đó là cuộc  trốn chạy bi thảm nhất trong lịch sử năm nghìn năm của dân tộc Việt. Từ đó một “Diaspora Vietnam” rải rác khắp nơi trong cộng đồng nhân loại.

**

Đi theo dấu vết thời gian và lần giở tài liệu cho tới hôm nay, chúng ta đã có được một bản “thống kê đại cương” như sau:

Trước năm 1975 chỉ có khoảng 3000 người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ, gồm nhân viên Ngoại giao VNCH, và sinh viên du học sống rải rác tại vùng Hoa Thịnh Đốn và các đại học thuộc các tiểu bang Maryland, Virginia, New York, Massachussets, Wisconsin, Michigan, Minnesota, Illinois...
Sau biến cố 30 tháng Tư 1975, tiếp theo các đợt di tản là những cuộc vượt thoát, người Việt ào ạt đổ vào Hoa Kỳ, mở đầu cuộc trốn chạy bi thảm, vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc dưới tên gọi di tản (evacuation), thuyền nhân, ODP và HO ... để trở thành những refugees trôi nổi khắp mọi miền trên trái đất.

Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc và Cơ quan American Census Bureau, nhân số trong đợt đầu di tản là 135,000, trong đó 40% thuộc Thiên chúa giáo, 48% có bằng cấp và 7% biết nói ít nhiều tiếng Anh.

Kết quả cuộc điều tra của Nhật báo Los Angeles Times năm 1990 thì sau khi Cộng sản mở các đợt tịch thu và quốc hữu hóa tài sản ở miền Nam vào những năm từ 1978 đến 1984 và khi cuộc chiến tranh biên giới Việt Hoa bùng nổ vào tháng 2 và tháng 3 năm 1979, có 276,000 người Việt gốc Hoa thoát ra khỏi Việt Nam.

Và từ tháng 7-1978 đến cuối tháng 12-1980 nhiều đợt thuyền nhân vượt biển qua các nước Asean.

Tài liệu của Cao Uy Tỵ nan Liên Hiệp Quốc đưa ra con số thống kê, có 650,000 người đến được bến bờ, nhưng nhiều chục ngàn người (khoảng 30% của tổng số thuyền nhân đã thiệt mạng). Theo thống kê này thì từ năm 1975 đến 1985 có khoảng 1 triệu người Việt liều chết bỏ nước ra đi.

Trước thảm trạng khủng khiếp đó, tháng 7 năm 1979 Liên Hiệp quốc đã triệu tập môt cuộc họp tại Geneve, Thụy Sĩ, gồm 46 quốc gia tham dự nhằm tìm biện pháp để giải quyết tình trạng. Ngày 20 tháng 7-1979 các quốc gia đã ký kết một thỏa thuận chung buộc Hà Nội phải hợp tác để giải quyết vấn đề.

Cũng xin nhắc lại, sau 25 năm, lịch sử lại một lần tái diễn tại cùng một địa điểm, cùng thời gian để giải quyết về một thực trạng bi thảm của Việt Nam. Ngày 20-7-1954 Hiệp định Geneve ký kết giữa Pháp và Việt Minh chia đôi đất nước, khoảng hai triệu người dân miền Bắc trốn chạy cộng sản di cư vào Nam. Ngày 20-7-1979 Hiệp định Geneve ký kết gữa LHQ, cùng 46 quốc gia với CS Việt Nam để đưa hơn một triệu người Việt ra khỏi nước đến định cư tỵ nạn tại các quốc gia không cộng sản.

Qua thỏa hiệp Geneve, quốc tế đã áp lực chính quyền Hà Nội phải chấm dứt những vụ vượt biên, ra đi “bán chính thức” bằng đường biển và chấp nhận một chương trình ra đi có trật tự – Orderly Departure Program (ODP), cùng với kế hoạch cho ra đi vì nhân đạo – Humanitarian Organization.

Từ thỏa hiệp này, chương trình ODP và H.O lần lượt hình thành và đi vào hoạt động. Đến cuối năm 1992 đã có 380,00 người Việt rời quê hương ra đi bằng đường hàng không. Phần lớn là tù chính trị  được thả ra từ các trại tập trung cải tạo. 60% trong số này định cư tại Hoa Kỳ, 40% đến các nước khác như Úc, Canada, Pháp, Đức..... Cũng theo nhật báo Los Angeles Times, chỉ trong một thập niên (1981 đến 1990), số người Việt bỏ quê hương chạy trốn Cộng sản từ con số 272,561 người năm 1981 vượt lên đến 845,725 người, trong số đó, 800,000 người định cư ở Hoa Kỳ.

Từ năm 1975 đến 1990 có 128,000 trẻ Việt sinh ra tại Mỹ, cộng với 38,885 con lai Amerasian nhập cư từ 1988 đến 1990.

Theo ước lượng của Giáo sư Xã Hội học Ruben G. Rumbaut thuộc đại học San Diego, tính đến năm 1991, số người Việt tại Hoa Kỳ là 1,034,159 người. Tính đến năm 1997, số  “Diaspora Việt” trên thế giới có khoảng 2,300,000 người. (**)

SongNhị

----------------------


(*)  John Pilger là phóng viên chiến tranh kỳ cựu, nhà làm phim và biên kịch người Anh. Hai lần đoạt "Nhà báo của năm" - giải báo chí cao nhất nước Anh - cho những hoạt động ở Việt Nam và Campuchia. Giải "Phóng viên quốc tế của năm" và "Giải Liên minh báo chí Liên Hợp Quốc.
(**)  Theo tài liệu của IRCC- Giao Chỉ - San Jose).


No comments:

Post a Comment