Trong suốt dọc dài lịch sử VN (ngoại trừ cuộc chiến Nam Bắc
1955-1975) có hai biến cố làm tổn hại nhân mạng nhiều nhất, đó là cuộc CCRĐ và
Cuộc Thảm Sát mậu thân 1968.
Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945 - 2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan.
Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945 - 2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan.
Xem tiếp
tại http://coinguonwriters.blogspot.com/
Chương IV
THỰC CHẤT BIỆN PHÁP SỬA SAI
VAI TRÒ HỒ CHÍ MINH TRONG CCRĐ
Từ năm 2008, sau khi một
tác giả người Đài Loan, GS Hồ Tuấn Hùng, tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Đại
Học Quốc Lập Đài Loan, phổ biến một quyển sách có tựa đề "Hồ Chí Minh Sinh
Bình Khảo’’ chứng minh Hồ Chí Minh (HCM), lãnh tụ của Việt Nam không phải là
Nguyễn Ái Quốc – Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Sinh Cung (người xã Kim Liên, Huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghê An), mà là Hồ Tâp Chương (HTC) người Đài Loan – Trung Hoa.
Rất nhiều bài viết của
nhiều tác giả tên tuổi
đưa ra những phân tích, nhận định, nhưng chưa có ai
khẳng định, quả quyết quan
điểm của mình về câu chuyện HCM là Hồ Tập Chương, thật hay giả. Hầu hết đồng ý
sự thật sẽ được sáng tỏ khi đảng CSVN cho thử DNA xác ướp.
Điều khiến dư luận mọi giới thắc mắc là tại
sao, cho đến nay, đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn hoàn toàn im lặng. Khi các
thông tin này được tung ra, đảng CSVN không hề mở miệng lên tiếng phản
đối, giải thích hay trấn an dư luận.
Tất cả những tư liệu liên
quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh ở Hà Nội, trong thư khố của Hoa Nam và Mạc Tư
Khoa vẫn còn bị niêm phong, không ai có quyền tham khảo.
Cuối cùng, điều chắc chắn, người ta nhận ra
chính ông HCM đã thực hiện cuộc Cải Cách Ruộng đất tàn ác, rập theo mô thức của
TQ tại Việt Nam, nhẫn tâm xử bắn người phụ nữ có lòng, bà Nguyễn Thị Năm, người
từng nuôi Lê Đức Thọ, Phạm
Văn Đồng và Trường Chinh…, cùng hàng trăm nghìn người dân VN vô tội khác, trực tiếp hay gián tiếp bị giết chết …
Dưới sự quản
lý của chính phủ Hồ Chí Minh, 9 năm kháng chiến chống Pháp, vùng nào gọi là “tự
do”, ở đó có chủ trương hợp làng, hợp xã, hợp tự…, để xóa mọi địa danh truyền
thống Việt, nhất là những địa danh và di sản văn hóa còn dấu vết cuộc kháng
chiến chống nhà Minh thế kỷ XV. Cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, cải tạo
công thương nghiệp tư bản tư doanh, xét cho cùng đều nhằm tiêu diệt đội ngũ
nhân sĩ trí thức, di sản văn hóa truyền thống dân tộc. Hồ Chí Minh nhận lệnh từ Mao,
những gì quân Minh thế kỷ
XV chủ tâm triệt phá mà phá chưa hết thì Hồ Chí Minh phá tiếp. Đình chùa bị HCM
triệt phá để thủ tiêu nền văn hóa dân tộc... Cái gọi là Cải cách ruộng đất mà Hồ Chí Minh
hô hào tổ chức thực hiện là chủ trương diệt chủng do Mao Trạch Đông đề xướng.
Khi dân mình
bị giết, những người ưu tú của dân tộc Việt đã bị bắn, bị chém, bị chôn sống,
bị đập bằng cào, cuốc, gậy gộc, gạch đá... HCM không hề đau xót, mà trái lại
còn hoan hỷ.
Chân tướng tội
ác của CCRĐ bị dư luận phản đối, có nguy cơ bị lật mặt thì đảng CSVN vội vã xoa
dịu, gọi là “sửa sai”.
Để chạy tội, Hồ Chí Minh đưa Võ Nguyên Giáp là người được coi là
tác giả chiến công Điện Biên Phủ xin lỗi toàn dân. Hồ Chí Minh đứng đàng
sau vỗ tay theo bài dạy của quan thầy “Ngọa sơn quan hổ đấu”.
Tình trạng xã hội nông thôn trong thời kỳ CCRĐ cực kỳ hỗn
độn. Thành phần bần cố nông “cốt cán” dựa hơi cán bộ đội Cải Cách, xưng hùng
xưng bá, tự tung tự tác, thẳng tay đàn áp, truy bức, trấn lột bất cứ người nào.
Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1956,
danh từ “Địa chủ” nghe rất rùng rợn, một
ám ảnh kinh hoàng cho con cái, thân nhân những gia đình bị khép vào thành phần
này. Bản thân những người địachủ bị miệt thị ghê tởm hơn cả một con súc vật. Xã
hội bị đảo lộn mọi tôn ti trật tự, luân lý đạo đức hoàn toàn bại hoại.
Một số gia đình địa chủ có con em là bộ đội, cán bộ thoát
ly, ở nhà cha mẹ bị đấu tố, có người bị tử hình, tài sản bị tịch thu... Tình
trạng đó khiến những người nông dân lương thiện sa sút tinh thần, hoang mang
giao động, những người từng dấn thân xông pha phục vụ chấn động niềm tin.
Trước tình trạng người dân chao đảo
oán than, đảng CSVN buộc phải có biện pháp xoa dịu. Tháng 9 năm 1956, Hội nghị
lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động phải ra quyết định:
Ngưng chức Tổng Bí Thư của Trường Chinh, khai trừ Hoàng
Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi Bộ Chính trị; loại Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban
Chấp hành Trung ương. Vậy có phải sự
thật là ông Hồ Chí Minh vô can và ông đã khóc khi nghe biết người dân đã bị
hành hạ, chết chóc oan nghiệt trong những vòng tai họa của cuộc CCRĐ??
Qua bài viết của những người trong cuộc như các ông Bùi
Tín, Nguyễn Minh Cần, Vũ Thư Hiên, Trần Đĩnh
khẳng định thì “người chịu trách nhiệm chính
là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là
con dê tế thần cho ông Hồ".
Trong nhiều thập niên qua vai trò của Hồ Chí Minh trong
CCRĐ vẫn được đặt ra với nhiều câu hỏi. Có thật ông chỉ theo lệnh của
Stalin và Mao Trạch Đông? Có thật ông chỉ là thiểu số không
đủ
quyền lực để ảnh hưởng đến các cố vấn Trung Quốc? Có phải ông chỉ muốn tiến hành giảm
tô? Có phải ông đã khóc khi biết được những tội ác do CCRĐ gây ra?
Trong cuốn “Đèn Cù”, tác giả Trần Đĩnh, người từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh ghi rõ, trong buổi đấu tố bà Nguyễn Thị Năm, Hồ Chí Minh đội nón,
mang râu, cải trang xem cuộc đấu tố và xử tử bà Năm…, (Đèn Cù, Trần Đĩnh,
Người Việt California 2014).
Cũng theo Trần Đĩnh, tác giả bài báo "Địa chủ Ác
ghê" chính là Hồ Chí Minh.
Để “minh họa”, người viết xin lược trích một số
những chi tiết trong
bài viết của ông Nguyễn Quang Duy (*) hầu cung
cấp cho bạn đọc tài liệu truy cứu.
Tuy nhiên, với các dữ kiện được minh chứng ở trên, nếu đúng giả thuyết Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương,
người gốc Hẹ, một điệp viên của tình báo Hoa Nam cài đặt vào lãnh đạo đảng Lao
Động Việt Nam, thì những nghi vấn về vai trò HCM trong CCRĐ không còn là vấn đề
cần tranh luận nữa. Mọi việc đã sáng tỏ. HCM là người chủ truơng thực hiện cuộc
CCRĐ theo chỉ thị của Stalin và Mao Trạch Đông.
Bài viết của tác giả Nguyễn Quang Duy:
“... Hồ Chí Minh đã hiểu rất rõ nguyện vọng "người cày
có ruộng" của nông dân Việt Nam. Khi còn ở Pháp ông có viết một
số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công
giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông tiếp nhận và để tâm nghiên
cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp,
vừa để xây dựng chuyên chế vô sản.
Trong một lá thư gởi các lãnh đạo Quốc
tế Nông dân đề ngày8/2/1928,
ông viết: "Tôi tranh thủ thời gian viết ‘những ký ức của tôi' về phong
trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông
dân. Người ‘anh hùng' trong ‘những ký ức của tôi' chính là đồng chí Bành Bái,
cựu Dân ủy nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lãnh tụ của nông dân
cách mạng." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265). Năm 1953 tại Hội nghị
nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến: "...đồng chí Bành Bái ở
Trung Quốc, gia đình đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy
đã tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong
kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).
Ngày 25/1/1953, tại Hội nghị lần thứ
tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ toạ, đọc báo cáo
đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu
tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ. Ít tháng sau, Đảng CS
đã lãnh đạo nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Khẩu hiệu "trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" được dùng
làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và
phong kiến.
Ngày 12/4/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 SL về
cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân
nghèo.
Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã quyết định tiến hành CCRĐ.
Trong báo cáo trước Quốc hội khoá I kỳ họp lần thứ ba, ông
Hồ đã phát biểu "Phương châm của cải cách ruộng
đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân" (Hồ
Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509).
Ông Nguyễn Văn Trấn,
nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I, đại diện Sài
Gòn Chợ Lớn, giải thích "phóng tay" nghiã là "cứ việc làm
mạnh thả cửa" (Nguyễn Văn Trấn, trang 266).
Ông Nguyễn Minh Cần giải thích "là làm hết sức mãnh
liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù quá trớn, quá tả
cũng không đáng sợ". Ông còn cho biết: "Ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ
hiểu: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu
lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được".
Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng "Trời ơi! Đảng của tôi
đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh." (Nguyễn
Văn Trấn, trang 266).
Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đã ra
chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà
chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất..."
Chính chỉ tiêu này đã: "... giết chết bao nhiêu vạn
sinh linh". (Hồ Chí Minh Toàn tập,
tập 6 trang 509).
Một địa chủ bị đấu gục. Ảnh: Nhiếp ảnh
gia Liên Xô Dmitri Baltermants (1912-1990) chụp tại Miền Bắc Việt Nam
năm 1955
Ông Nguyễn Minh Cần giải thích "là làm hết sức mãnh
liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù quá trớn, quá tả
cũng không đáng sợ". Ông còn cho biết: "Ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ
hiểu: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu
lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được".
Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng "Trời ơi! Đảng của tôi
đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh." (Nguyễn
Văn Trấn, trang 266).
Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đã ra
chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà
chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất..." Chính chỉ tiêu này đã:
"... giết chết bao nhiêu vạn sinh linh". (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509).
Trong thời gian tiến hành giảm tô tiến đến CCRĐ, sáu xã tại
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị
mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh Long (xem
Nguyễn Minh Cần). Bà làngười đã che giấu và nuôi dưỡng các lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm
Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... trong thời gian Đảng CS
còn hoạt động bí mật. Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều
theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm
Chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin.
Thành Tín cũng viết "Ông Hoàng
Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với
ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: “Không ổn! Không thể mở
đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi
cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức”.
Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách
này".
Thành Tín viết tiếp: "Thế nhưng không có gì động theo
hướng đó cả! Bởi vì người ta mượn cớ đã quá chậm. Các phóng viên báo chí, các
nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà
Năm rồi".
Trong hồi ký “Giọt Nước Trong Biển Cả”, ông Hoàng Văn Hoan
đã cho rằng Ủy ban CCRĐ "... tự cho phép các đội CCRĐ được bắn vào địa chủ
gian ác để nâng cao khí thế nông dân. Việc bắn địa chủ mở đầu từ Thái Nguyên,
sau lan tràn đi nhiều nơi, coi là một phương pháp tốt, để nâng cao uy thế của
nông dân."
Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch thành phố Hà Nội,
đã hết sức ưu tư về việc "những người lãnh đạo cộng sản trong Bộ Chính trị
và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang
làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, Phó Thủ tướng
đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ
vào đầu của một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản!
Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo trước
những tai họa khôn lường cho toàn dân tộc!".
Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét một cách dứt khoát: "Câu
chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất,
bực bội vì việc mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người bào
chữa cho ông là một chuyện tầmphào. Một lệnh ông Hồ ban ra không phải là chỉ
cứu được bà Nguyễn Thị Năm, nó còn cứu hằng ngàn người bị giết oan trong cả Cải
cách ruộng đất, lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành. Ông
không cứu ai cho tới khi những sai lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt
bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê. Nhưng đã muộn" .
Vũ Thư Hiên còn cho biết ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên thư ký
riêng của Hồ Chí Minh, đã nói thẳng với ông Hồ: "Máu đồng bào, đồng chí đã
đổ mà Bác vẫn còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt,
chúng ta phải vừalàm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi
sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào đồng
chí". Cũng qua Vũ Thư Hiên ta biết được ông Vũ Đình Huỳnh đã "...
khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là
Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ".
Vụ án Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói chung còn rất
nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan đến các nạn nhân
hay gia đình nạn nhân CCRĐ. Nó còn in đậm nét trong tâm trí của những người đã
một thời tin vào chủ nghĩa cộng sản, vào lý tưởng cộng sản, vào sự lãnh đạo của
Hồ Chí Minh và ĐCS, trong đó có người từng trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn
khúc này cần phải được làm sáng tỏ.
Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản
xuất của tác giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài
"Địa chủ ác ghê". Bài viết này đã được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21
tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này. Đúng như nhà báo Thành Tín
cho biết, "các phóng viên báo chí, các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án,
kết tội bà Năm rồi".
Cho tới ngày hôm nay, khi mà đảng CSVN không còn có thể
bưng bít, khi mà các tác giả là nhân chứng sống, chứng kiến các cuộc đấu tố tại
các địa phương đã vượt qua nỗi sợ hãi, đã thẳng thắn viết ra những gì họ nhìn
thấy, họ nghe biết.
Trần Đĩnh trong tác phẩm Đèn Cù, khẳng định, tác giả bài
báo "Địa chủ Ác ghê" chính là Hồ Chí Minh. Tác giả Nguyễn Văn Trấn,
trong cuốn “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội” đã kể rằng, có lần ông hỏi ông Tôn Đức
Thắng, Phó Chủ Tịch VN Dân Chủ Cộng Hòa, tại sao để cho cải cách ruộng đất giết
dân như vậy? Đang ngồi, ông Tôn Đức Thắng bật dậy khỏi ghế, vừa đi vừa văng tục:
“ĐM, tao cũng sợ nó, mày biểu tao còn dám nói cái gì.”
Từ sau những đợt đấu tố thanh trừng
gây kinh hoàng trên toàn miền Bắc, nhiều học giả, sử gia và nhà nghiên cứu xã
hội Việt Nam
và ngoại quốc đã chú tâm xem xét toàn bộ thảm kịch. Một nhận định chung cho
rằng có hơn 70% người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông là quy sai.
Trường hợp xử tử bà
Nguyễn Thị Năm là một điển hình. Bà Năm là chủ hiệu Cát Hanh Long ở Hà Nội, mẹ
nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh. Bà có con trai là Trung Đoàn trưởng một Trung đoàn của Quân đội
Nhân dân Việt Nam.
Trong Tuần Lễ Vàng, gia đình bà đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền VNDCCH
mới thành lập.
Gia đình tôi, khoảng cuối năm 1957 đã vượt biên đến
Lào nhận được thư ông anh tôi gửi từ Hà
Tĩnh via (qua) Hong Kong thông báo cho bố mẹ tôi biết CCRĐ đã được sửa sai, bố
mẹ tôi đã được trả lại thành phần. Thư có đoạn mong gia đình trở về sum họp. Nhà
của bố mẹ tôi gồm ba căn nhà ngang và hai căn nhà dọc, có vườn rộng, nhiều loại
cây ăn trái, có vườn cau, ao nuôi cá... bị tịch thu chia cho hai gia đình cố
nông chiếm ngụ. Khi có lệnh sửa sai, ông anh tôi là giáo viên, làm đơn xin Ty Giáo dục tỉnh chứng nhận và giới thiệu sang
xin bút phê của Uỷ Ban và Công an
tỉnh, đem về địa phương xin lại ngôi nhà. Đang lúc có biện pháp sửa sai, để xoa
dịu dư luận nên thủ tục lấy lại nhà tương đối dễ dàng. Cuối cùng gia đình ông
anh tôi được trở về tổ ấm cũ, có nơi thờ phụng tổ tiên.
Ngày mà đảng cho vào chiếm ngụ nhà
tịch thu của địa chủ, những cố nông cốt cán ấy như người trúng số, như nằm mơ,
bỗng dưng từ khố rách áo ôm, chui ra chui vào một túp nhà tranh lụp xụp, một
sáng một chiều trở thành chủ nhân một tòa nhà rộng rãi khang trang. Hết lời ca
ngợi, biết ơn đảng! Ngày phải thu dọn, gom góp mấy cái chén đĩa, nồi niêu, rổ
rá sắp vào quang gánh bước ra khỏi nhà, đứng giữa sân, đứng trước ngõ vừa khóc
vừa la: “Ơi đảng ơi là đảng! Đảng lừa bịp chúng tôi! Ơi trời ơi là trời! Bây giờ
ăn đâu? Ở đâu?...”.
Những người này khi trở lại với công việc làm ăn sinh sống
thì đã hai bàn tay trắng, nhà không, vách trống, không nơi nương tựa, không còn
nơi để làm thuê, làm mướn, lâm vào cảnh đói rách cùng cực. Có người phải đi
hành khất độ nhật, thân xác liệt nhược, chết dần chết mòn thê thảm.
Nhà cửa địa chủ khi lấy lại đã bị phá
phách tả tơi. Chạn bếp, bàn thờ đã bị tháo gỡ xuống làm củi. Ngoài vườn, cây
cối bị đốn ngã, cưa chẻ làm củi chụm bếp, sưởi ấm mùa đông. Tất cả tiêu điều
ngay sau khi chủ nhà bị đuổi ra khỏi.
Trong thời gian CCRĐ, đám bần cố nông cốt cán vung tay lộng
hành, vu vạ, trấn áp, cướp của giết người vô tội vạ. Người đi chợ mang bán ít
trái cam trái bưởi, vài ký đậu, kí lạc, lỡ gặp đám “cốt cán” là bị gán cho tội
“phân tán tài sản” bị tịch thu, cướp đoạt. Bà Thái Thị Trường, vợ một đại úy bộ
đội, lúc ấy đang công tác ở Liên Xô, ở nhà bố mẹ bị quy địa chủ, bố vợ chết
trong tù, tài sản bị tịch thu. Bà Trường phải chạy chợ, mua từ chợ này bán ở
chợ kia kiếm gạo nuôi con. Một hôm bị một cốt cán tên Tý đón đường lục xét lấy
hết cả gánh hàng: đậu, bắp, môn khoai và nhiều thứ khác đem về trụ sở Ủy Ban,
bảo về xin giấy địa phương chứng nhận, sẽ được trả lại. Hôm sau bà Trường mang
giấy chứng nhận tới thì được trả lời “tang vật đã chuyển lên cấp trên!”. Bà
Trường gạt nước mắt ra về! Chồng bà Trường sau 1975 là Đại tá làm việc tại QK7.
Những “cốt cán” kia đã mồ xanh cỏ từ nhiều năm trước!
Năm 2010, bà Trường được một người cháu gọi bằng dì ruột
làm thư mời, bảo lãnh sang Mỹ thăm gia đình cháu tại Boston, Massechussette,
trong nhà có quyển Nửa Thế Kỷ VN (ấn bản lần thứ hai), bà đọc quyển sách này,
khi đọc đến chi tiết nói về cảnh ngộ của bà
thời CCRĐ, đứa cháu cho tôi biết "dì khóc nức nở như đứa trẻ".
Một trường hợp “chết người” khác tiêu biểu trong muôn một
những tai ách mà con cháu, gia đình địa chủ phải hứng chịu trong thời kỳ đó:
gia đình ông bà Trần Thựu xã Phú Gia, ông tự tử chết chưa quá một trăm ngày,
một hôm đứa cháu nội bảy tuổi sang nhà hàng xóm chơi, đám trẻ xúm nhau gọt mía
ăn. Đứa con hàng xóm bị đứt tay chảy máu, òa lên khóc. Cha mẹ đứa bé và hàng
xóm chạy đến, trong số có Phan Châu, cán bộ cốt cán cho là địa chủ xúi cháu
mình chém con nông dân để trả thù. Y ra lệnh bắt bà Thựu giam giữ hành hạ suốt
nhiều ngày đêm. Bà Thựu trên 70 tuổi uất nghẹn vì oan ức, trốn ra mồ chồng treo
cổ chết.
Vì những hành vi man rợ giữa những người trong cùng chòm
xóm không xa lạ gì nhau, đã hãm hại, triệt hạ người khác, nên “Ban sửa sai” đã
rất khó khăn trong việc tổ chức những buổi hội họp. Nhiều vụ lộn xộn xẩy ra.
Nhiều cảnh xô xát, hoặc hăm dọa thanh toán các cán bộ cốt cán rễ chuỗi để trả
thù. Nhiều cuộc họp bất thành, xung đột xẩy ra nhiều nơi giữa cốt cán rễ chuỗi
trong CCRĐ và con cái, gia đình những địa chủ uất ức vì người cha bị tử hình
hoặc chết trong tù.
Tại vùng Loan Dạ, con cái bà Ngô Hệ vác dao đến chỗ họp
rượt chém, đuổi về tận nhà những người trước đó đấu tố, xử tử chồng bà. Các cán
bộ rễ chuỗi phải lẩn trốn, không dám xuất hiện. Ban sửa sai đã phải vận dụng
mọi cách, đến nhà an ủi, khuyến dụ Bà Ngô Hệ,
trả lại thành phần Trung nông, trả lại nhà và vườn, trên nguyên tắc,
được tham gia mọi sinh hoạt bình đẳng với nông dân. Các phiên họp sau đó mới tổ
chức được yên ổn.
Kết quả sửa sai tại xã Phú Gia, con số
trên 20 địa chủ, từ: một án tử hình, một án 20 năm, bốn án 18 năm và các án 5
năm tù, đến các án tịch thu tài sản trong CCRĐ được sửa lại:
- Một địa chủ kháng chiến
- Một địa chủ có công với cách mạng
- Những địa chủ bị quy sai khác được trả lại thành phần Phú
nông hoặc Trung nông. [“Phú Gia - Lịch Sử Sự Tích” –
sđd].
MIỆT TH Ị VÀ TƯỚC ĐOẠT MỌI QUYỀN SỐNG TỐI THIỂU
Trong CCRĐ, không những bản thân địa
chủ bị miệt thị ghê tởm hơn cả súc vật, con cháu địa chủ cũng bị hành hạ cả thể
xác lẫn tinh thần, bị gạt ra ngoài lề xã hội, bị tước đoạt mọi quyền sống tối
thiểu, kể cả quyền tự do luyến ái, tự do hôn nhân.
Trường hợp Nhà thơ Hữu Loan, sau CCRĐ về thăm một gia đình
địa chủ từng nuôi đại đội lính do ông chỉ huy, gặp người con gái của gia đình
địa chủ này sống vất vưởng, không nơi nuơng tựa, hàng ngày ra đồng mót lúa, mót
khoai sinh sống. Nhà thơ đã đưa cô gái về giúp đỡ, bảo bọc. Về sau cưới làm vợ.
Trong CCRĐ, theo chủ trương của đảng, những "công
tử", "tiểu thư" ngày nào của các gia đình địa chủ đều bị xã hội
hất hủi, đuổi xua, xa lánh. Con trai không thể lấy vợ, con gái không thể lấy
chồng là người mình yêu thương.
Nhà thơ Tạ Hữu Thiện có một bài thơ đăng trên Nhân Văn, Giai Phẩm. Bài thơ "hiền hòa", diễn tả
tâm sự của một chàng
tuổi trẻ "đi tìm tình yêu", với những ẩn dụ để
phản đối chính sách kỳ thị giai cấp trong yêu đương. Bài thơ tôi đọc được năm
1958, còn nhớ được một phần như sau:
Ai lớn lên không từng yêu đương/ Ai biết yêu không từng hò hẹn/ Việc ấy
lẽ thường/ Tôi đã từng yêu từng chán nản/ Chưa bao giờ thấy nguội con tim/ Chưa
bao giờ thỏa mãn/ Khao khát em tôi vẫn gắng công tìm/Thật thà/ tôi chẳng biết
cân nhắc thành phần/ Cũng chẳng dại làm điều vô ích/ Ra mình kén cá chọn canh/
Vì tình yêu đời đời đâu có phải/ Là bốn bài trừ cộng chia nhân...
Tác giả xác nhận đang yêu, yêu tha thiết, dù bị cấm cản vẫn
theo đuổi mối tình đã chọn lựa, vẫn "khao khát" yêu thương và vẫn
quyết tìm đến với người yêu. Đoạn cuối của bài thơ, tác giả khẳng định bất chấp
chính sách phân biệt đối xử thành phần, không chấp nhận sự cấm đoán cuộc hôn
nhân đôi lứa.
Hai câu cuối "Vì
tình yêu đời đời đâu có phải / Là bốn bài trừ cộng chia nhân", ý nói
tình yêu muôn đời không có tính toán chi li. Nhưng ẩn dụ tác giả muốn nhắn nhủ,
rằng - tình yêu đâu phải là vũ khí diệt cộng (trừ cộng). Tác giả Tạ Hữu Thiện ít làm thơ, nhưng đây
một trong những bài thơ trên Nhân Văn, Giai phẩm, bên cạnh thơ Trần Dần, Phùng
Quán mà tôi tâm đắc.
NHỮNG
THỐNG KÊ
SỐ
NGƯỜI BỊ HÀNH QUYẾT
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường trong bài
diễn văn đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956,
cho rằng cuộc Cải Cách Ruộng Đất được thực hiện với hương châm "thà giếtoan
10 người còn hơn để sót một địch"; phương châm này đi ngược lại với quy
tắc cơ bản của pháp luật "thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án
oan". Tất cả những nguyên tắc pháp lý ở một xã hội văn minh, dân chủ đã
không được áp dụng khi kết tội và xét xử trong CCRĐ cũng như dưới thể chế cộng
sản từ năm 1956 đến nay. Số lượng người bị giết trong Cải Cách Ruộng Đất
không thể thống kê chính xác và còn gây tranh cãi. Tuy nhiên, đã có những con
số được thảo luận và đồng ý do các nhân chứng, các nhà nghiên cứu, kể cả các
tài liệu do chính đảng cộng sản đưa ra.
Theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt
cải cách ruộng đất có 10.303.004 (mười triệu ba trăm lẻ ba ngàn không trăm lẻ
bốn) nạn nhân. Nếu tính nạn nhân là bản thân địa chủ bao gồm cả gia đình và con
cháu thì con số 10 triệu 300 ngàn này là khá chính xác.
Theo bộ “Lịch Sử
Kinh Tế Việt Nam 1945 - 2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm
2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác
định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan.
Hòa Thượng Thích
Quảng Độ sau khi tiếp xúc với các nhân chứng và cán bộ CCRĐ cho biết con số nạn
nhân lên tới khoảng 750.000 người (Phim tài liệu Cải Cách Ruộng Đất:
https://www.youtube.com/watch?v=GDIBQAqBMEM
(Preview)
Con số 172.008 địa
chủ bị đấu tố, hành quyết cũng được ghi nhận trong bài “Land Reform in Vietnam”
(Wikipedia, the Encyclopedia): http://en.wikipedia.org/wiki/Class_enemies
[Xem Phụ Lục 1 “Land
Reform in Vietnam”
trang 519]
No comments:
Post a Comment